Đề án đã mang lại hiệu quả thiết thực, nhiều bản có điện lưới quốc gia, đường giao thông, nhiều hộ đã thoát nghèo. Đơn cử tại xã Pù Nhi, giai đoạn 2016 - 2020, xã được hỗ trợ hơn 2 tỷ đồng để giúp người dân xây dựng các mô hình phát triển sản xuất như mô hình chăn nuôi bò, lợn, mô hình trồng cây hái quả, mô hình trồng lúa... Các chương trình đã mang lại hiệu quả khả quan, số hộ nghèo của xã năm 2017 là hơn 700 hộ, đến cuối năm 2019 giảm còn 562 hộ (trong đó có hơn 400 hộ là đồng bào người Mông), thu nhập bình quân đầu người đạt gần 16 triệu đồng/năm.
Hộ ông Lâu Tông Cơ (dân tộc Mông, SN 1960, trú tại bản Pu Toong, xã Pù Nhi) vừa ra khỏi hộ nghèo hồ hởi: Năm 2018, tôi được xã Pù Nhi hỗ trợ giống cây trồng và chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, sau đó, tôi xây dựng mô hình trồng cây hái quả kết hợp chăn nuôi để nâng cao thu nhập.
Sau 2 năm, với tinh thần vượt khó, hiện gia đình ông đang trồng 200 gốc nhãn, 100 cây chuối, nuôi 5 con bò, 7 con lợn sinh sản, 1 ha ruộng lúa, thu nhập mỗi năm của gia đình đạt 90 triệu đồng/năm. “Tôi rất biết ơn sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ của chính quyền địa phương đã tạo điều kiện để tôi được hỗ trợ vốn, giống vật nuôi, nhờ đó hộ gia đình tôi được thoát nghèo”, ông Cơ nói.
Tương tự, chị Sung Thị Lâu (dân tộc Mông, SN 1982), trú tại bản Toong, xã Pù Nhi, trước đây, gia đình nghèo, chị sống chủ yếu bằng việc đi nương rẫy nhưng vẫn không đủ nuôi sống gia đình. Năm 2017, UBND xã Pù Nhi đã hỗ trợ gia đình chị 1 con bò sinh sản trị giá 10 triệu đồng. Cùng với việc vay vốn ngân hàng, gia đình chị mạnh dạn thực hiện mô hình gia trại tổng hợp để làm kinh tế. Đến nay, gia trại của chị đã có 12 con bò, 200 con gà, 1 ha rừng trồng cây xoan, 6 sào lúa và 1 ha mía, bình quân đạt trên 100 triệu đồng/năm. Hiện nay, gia đình chị đã thoát nghèo, đó là thành quả của những chính sách đầy thiết thực cùng với tinh thần tự chủ vươn lên của người dân.
Mặc dù bên cạnh những kết quả đạt được, việc ổn định đời sống, sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Mông còn nhiều khó khăn như: Điều kiện khí hậu khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, tập quán sản xuất lạc hậu chủ yếu dựa vào nương rẫy, trình độ dân trí thấp, một số người dân còn ỷ lại, chưa có ý chí vươn lên thoát nghèo..
Ông Cao Văn Cường, Chủ tịch UBND huyện Mường Lát cho biết: Thời gian tới, huyện tiếp tục quan tâm đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc để kết nối vùng dân tộc thiểu số và miền núi với vùng phát triển nhằm thu hút đầu tư, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm do nhân dân sản xuất ra. Cùng với đó là giải quyết cơ bản vấn đề đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, dạy nghề, tạo sinh kế cho đồng bào có thu nhập ổn định, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Mông nói riêng trên địa bàn huyện biên giới này.
Mường Lát là huyện biên giới nghèo nhất tỉnh Thanh Hóa, cũng là nơi đồng bào người Mông tập trung đông nhất với 3.148 hộ, cư trú ở 38 bản, thuộc 6 xã dọc biên giới. Bà con chủ yếu cư trú ở khu vực núi cao, rừng sâu, địa hình hiểm trở, do đó điều kiện kinh tế xã hội vô cùng khó khăn.