1. Chúng tôi tới xã Long Sơn, huyện Long Điền, tỉnh Trà Vinh trong một ngày nắng nóng gay gắt. Con đường ngoằn ngoèo dẫn đến ấp Huyền Đức, bụi cuộn lên từng đợt mù mịt, hòa lẫn trong sắc xám, vàng của những thửa ruộng trơ trơ màu cỏ khô, nứt toác. Đặt chân xuống vùng đất cằn khô này, tôi mới cảm nhận rõ sự vất vả của người dân nơi đây, khi hạn hán tác động thường xuyên và ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống bà con ở vùng lúa gạo lớn nhất cả nước này.
“Năm nay, ruộng bỏ không vậy đó. Do được cảnh báo sớm về tình trạng hạn hán, thiếu nước nên huyện, xã đã khuyến cáo bà con không sản xuất vụ lúa Đông Xuân” - ông Trần Minh Vĩnh, người dân ở ấp Huyền Đức, tiếp chúng tôi, chia sẻ.
Trong tâm trí của người dân xã Long Sơn vẫn nhớ như in vụ lúa Đông Xuân năm 2020 đã mất trắng vì hạn, mặn. Cả xã xuống giống khoảng 240.000 ha nhưng do ảnh hưởng của nắng nóng, xâm nhập mặn nên bị thiệt hại hoàn toàn, còn hoa màu thì thiếu nguồn nước tưới. “Không trồng lúa được thì ở không sướng hơn chứ!” - ông Vĩnh cười, giấu nỗi nhọc nhằn trong khóe mắt.
Vựa lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: MH |
Nước mặt khan hiếm, trời lại ít mưa, nước ngầm cạn kiệt, canh tác bị ngưng trệ. Để giúp bà con xã Long Sơn, năm 2016, UBND huyện Long Điền phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh xây dựng hồ trữ nước mưa có diện tích 1,1 ha, dung tích 26.500 m3 tại ấp Huyền Ðức với tổng kinh phí 3 tỷ đồng, có khả năng cung cấp nguồn nước tưới tiêu cho 28 ha chuyên canh hoa màu.
Năm 2019, mô hình này được Dự án Thích ứng biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Quỹ Phát triển Nông nghiệp quốc tế (IFAD) đồng thuận tài trợ, khuyến khích nhân rộng. Hồ sử dụng công nghệ năng lượng tái tạo, gồm hệ thống điện năng lượng mặt trời hòa lưới, máy bơm điều áp chạy luân phiên, đường ống tưới rẽ đến từng hộ dân.
Minh chứng cho hiệu quả của hồ nước này, ông Lê Văn Trí (ấp Huyền Đức) chỉ vào ruộng lạc tươi tốt sắp đến kỳ thu hoạch, khoe với chúng tôi: “Lạc nhiều củ lắm (nói rồi ông nhổ vài khóm lên). Nhờ có hồ, nước tưới đều mới trồng được đó chứ”.
Theo ông Trần Văn Công Bằng - Phó Chủ tịch UBND xã Long Sơn: “Từ hồi có hồ này, vấn đề nước tưới tiêu đã được tháo gỡ. Hồ hoạt động rất hiệu quả, giúp người dân giảm chi phí sản xuất và nhân công. Hiện nay, do đang giai đoạn thí điểm nên hồ chỉ tưới tiêu cho hơn 10 hộ với diện tích khoảng 11 ha. Xã có báo cáo huyện, trước mắt thí điểm, nếu hiệu quả thì sẽ đề xuất có hồ thứ hai, thứ ba”.
Chia tay chúng tôi, Phó Chủ tịch UBND xã Long Sơn không quên gửi gắm: “Trước cứ nghĩ biến đổi khí hậu là ở đâu đâu, nhưng thực tế bây giờ bà con đang chịu ảnh hưởng của nó hàng ngày, hàng giờ. Biến đổi khí hậu cũng khiến cho những kinh nghiệm do cha ông để lại kiểu “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa…” không còn thực tế nữa. Tương lai 5 - 10 năm tới, nguồn nước mặt càng hạn chế, đây là bài toán khó trong sản xuất nên Trà Vinh rất cần các nhà quản lý, nhà khoa học hỗ trợ”.
2. Đau đáu với bài toán nguồn nước, hạn hán và sức chịu đựng của người dân ở xã Long Sơn, xót xa nhìn những cánh đồng lúa úa màu cỏ cháy, chúng tôi hiểu sự dũng cảm, yêu đất, mến quê ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long; song cũng băn khoăn về tương lai chừng như bất định trước tác động ngày càng mạnh mẽ của biến đổi khí hậu. Họ - người dân đất “chín rồng” sẽ cần phải thích ứng ra sao thay vì trông chờ vào những hồ chứa nước?
Câu hỏi ấy của chúng tôi được giải đáp khi tới ấp 9, xã An Hiệp, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Huyện Ba Tri vốn là “tâm điểm” của hạn, mặn. Ấy vậy mà đến nơi đây, nhìn những hàng dừa tỏa bóng, cây cối vẫn xanh tươi đơm hoa kết trái ở ấp 9. Thăm mô hình nuôi vịt biển của thím Tám (tên thật là Lê Thị Kim Cúc), khiến chúng tôi tưởng như biến đổi khí hậu là chuyện ở ngoài vùng đất này.
Thím Tám nổi tiếng cả vùng vì mát tay nuôi vịt biển. Gọi là vịt biển vì giống vịt này có khả năng thích ứng được với tình trạng biến đổi khí hậu, đặc biệt là đối với môi trường nước ngọt, mặn và lợ.
Thím Tám cho biết, trước đây thím nuôi vịt quế nhưng năng suất thấp. Năm 2016, nắng nóng, hạn hán kéo dài khiến ao hồ cạn nước, nứt nẻ, vịt thiếu nước ngọt để sống, rồi bị chết do dịch. Vì vậy, từ năm 2017, Dự án Thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại tỉnh Bến Tre (Dự án AMD Bến Tre) đã hỗ trợ cho các hộ dân chuyển đổi sang nuôi vịt biển, trong đó có gia đình thím Tám.
Thông tin về Dự án này, ông Bùi Thanh Sang - Điều phối viên cấp huyện của Dự án AMD Bến Tre chia sẻ, mô hình nuôi vịt biển là mô hình trình diễn, ban đầu được triển khai tại 10 hộ dân xã An Hiệp, mỗi hộ được hỗ trợ 100% chi phí mua 300 con giống, 30% chi phí thức ăn, 30% chi phí vắc-xin tiêm phòng và thuốc thú y, phần còn lại là vốn đối ứng của người nông dân. Với thời gian nuôi từ 55 đến 60 ngày, mỗi con vịt biển đạt trọng lượng khoảng 2,5 - 2,6 kg, năng suất và chất lượng đều cao hơn giống vịt cũ. Điều đặc biệt, giống vịt này có khả năng sinh sống trong điều kiện nước bị nhiễm mặn cao nên rất phù hợp để chăn nuôi nhằm thích nghi với biến đổi khí hậu.
Nhận thấy vịt biển có đặc điểm sinh trưởng nhanh, phù hợp với điều kiện của địa phương, sau gần 2 tháng chăn đàn vịt giống, thím Tám mạnh dạn tuyển chọn 80 vịt mái để đẻ trứng, số còn lại cho xuất chuồng. Hiện nay, đàn vịt nhà thím có 120 con, đẻ trứng thường xuyên. Thu nhập của gia đình chủ yếu từ việc bán trứng và vịt con. Nhờ nuôi vịt biển mà thím nuôi được con ăn học, gia đình cũng thoát khỏi hộ nghèo.
Có thể thấy, nước lợ, nước mặn, thiếu nước ngọt là câu chuyện thường trực ở quê thím Tám. Để chủ động nguồn nước ngọt cho gia đình và đàn vịt, thím có hồ trữ nước mưa riêng đề phòng lúc hạn hán xảy ra. Một số hộ khác còn có túi trữ nước ngọt. Đồng thời, tận dụng luôn nguồn nước mặn, các hộ dân đào ao để nuôi tôm. Không trồng được lúa, bà con trồng cỏ để nuôi bò. Cuộc sống vì thế cũng vơi bớt khó khăn.
3. “Đừng coi hạn, mặn là kẻ thù” - TS. Nguyễn Hồng Tín, Viện Nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Đại học Cần Thơ nhắn nhủ đến chúng tôi khi cùng đi tham quan các mô hình thích ứng biến đổi khí hậu.
Có nhiều năm nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long, TS. Tín cho rằng, để thích ứng với biến đổi khí hậu, cần thực hiện các giải pháp “không hối tiếc”.
“Đây là thuật ngữ được Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra cách đây vài năm. Nó có nghĩa là những giải pháp mở, linh động, để đối phó với biến đổi khí hậu. Ví dụ ở Trà Vinh và Bến Tre, để chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, họ có giải pháp mềm và cứng. Phần lớn giải pháp mềm thì “không hối tiếc”, phát triển uyển chuyển theo sự phát triển của tự nhiên, như mô hình canh tác thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu” - ông Tín nói.
Quan điểm của TS. Nguyễn Hồng Tín hay sự chuyển đổi hoạt động sản xuất, nuôi trồng, canh tác của người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đều phù hợp với chủ trương của Chính phủ khi phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, thích ứng biến đổi khí hậu.
“Đồng bằng sông Cửu Long phải tôn trọng quy luật tự nhiên, chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thuận thiên là chính, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, phát triển bền vững theo phương châm chủ động sống chung với lũ, sống chung với mặn, khô hạn, thiếu nước, phù hợp với điều kiện thực tế” - nguyên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (nay là Chủ tịch nước) từng phát biểu tại các Hội nghị về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long.
Và mới đây, tại Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 120, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tiếp tục cam kết kiến tạo cơ chế thuận lợi để toàn vùng tiếp tục triển khai Nghị quyết 120, hướng tới một vùng Đồng bằng sông Cửu Long trù phú, thịnh vượng, lấy con người làm trung tâm, coi việc sử dụng hiệu quả tiết kiệm và bền vững tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên khác là triết lý phát triển.
Điều này cho thấy quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Chính phủ, cũng là củng cố thêm niềm tin vững vàng về tương lai phát triển tươi sáng của vùng đất máu thịt ở phía Nam Tổ quốc.