Tăng hỗ trợ bảo vệ và phát triển rừng cho đồng bào dân tộc
(TN&MT) - Tại một số địa phương, rừng vẫn bị tàn phá để lấy đất phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các chính sách bảo vệ và phát triển rừng đưa ra chưa tạo được nguồn lực đủ mạnh để tạo nguồn thu nhập ổn định, giúp người dân yên tâm bảo vệ, phát triển rừng và sống được bằng nghề rừng.
Để khắc phục những hạn chế này, Chính phủ vừa ban hành Nghị định về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020. Nghị định quy định mức hỗ trợ từ 5 - 10 triệu đồng/hécta để mua cây giống, phân bón và chi phí một phần nhân công bằng tiền đối với trồng cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ tùy theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng theo thiết kế - dự toán.
Mức hỗ trợ từ 5 - 10 triệu đồng/hécta để mua cây giống, phân bón và chi phí một phần nhân công bằng tiền đối với trồng cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ tùy theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng theo thiết kế - dự toán. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương và thiết kế - dự toán.
Hộ gia đình nghèo tham gia trồng rừng sản xuất và phát triển lâm sản ngoài gỗ, trồng rừng phòng hộ được trợ cấp 15 kg gạo/khẩu/tháng hoặc bằng tiền tương ứng với giá trị 15 kg/gạo/tháng tại thời điểm trợ cấp trong thời gian chưa tự túc được luương thực. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức và thời gian trợ cấp, nhưng tối đa không quá 7 năm.
Theo Nghị định, đối tượng rừng khoán bảo vệ được hỗ trợ gồm: Diện tích rừng Nhà nước giao cho Ban Quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ; rừng đặc dụng, rừng phòng hộ là rừng tự nhiên Nhà nước giao cho các công ty lâm nghiệp quản lý; riện tích rừng chưa giao, chưa cho thuê do UBND cấp xã quản lý.
Hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn nêu trên được hỗ trợ tiền khoán bảo vệ rừng là 400.000 đồng/hécta/năm, hưởng lợi từ rừng và thực hiện trách nhiệm bảo vệ rừng theo quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước với hạn mức diện tích rừng nhận khoán được hỗ trợ tối đa là 30 hécta một hộ gia đình.
Hộ gia đình thuộc đối tượng 1 nêu trên thực hiện bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng được giao có trồng bổ sung với rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên được hỗ trợ bảo vệ rừng là 400.000 đồng/hécta/năm; hỗ trợ trồng rừng bổ sung, mức hỗ trợ theo thiết kế - dự toán, tối đa không quá 1.600.000 đồng/héc- ta/năm trong 3 năm đầu và 600.000 đồng/héc- ta/năm cho 3 năm tiếp theo. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, hộ gia đình người Kinh nghèo đang sinh sống ổn định tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (khu vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền núi theo tiêu chí Thủ tướng Chính phủ quy định, có thực hiện một trong các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng được Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cho vay không có tài sản bảo đảm để chăn nuôi trâu, bò, gia súc khác với hạn mức vay tối đa là 50 triệu đồng, thời hạn cho vay tối đa 10 năm.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 2/11/2015.