Tài nguyên … rác đang bị bỏ quên
Theo thống kê từ Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, hiện nay trên địa bàn tỉnh mỗi ngày phát sinh khoảng 2.013 tấn rác sinh hoạt (trong đó khu vực đô thị là 537,9 tấn; khu vực đồng bằng, trung du, miền núi khoảng 1.196,4 tấn; khu vực nông thôn là 279,8 tấn). Với lượng rác lớn như thế, nhưng chỉ được xử lý bằng 2 phương pháp là chôn lấp và đốt.
Toàn tỉnh có 26 khu xử lý chất thải rắn (CTR) sinh hoạt tập trung bằng công nghệ đốt. Tuy nhiên, đây chỉ là những lò đốt cỡ nhỏ (công suất 500 kg/h), các thông số về tính năng chưa đầy đủ, không đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật theo quy định QCVN61-MT: 2016/BTNM, có nguy cơ phát sinh các loại khí độc như: Dioxin, furan…Việc xử lý chất thải phân tán, khó kiểm soát việc phát thải ô nhiễm thứ cấp vào môi trường không khí
Với phương châm “Rác là nguồn tài nguyên”, công nghệ đã mang lại những kết quả tích cực |
Nhận thức được tầm quan trọng công tác xử lý tái chế rác thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phải tìm ra công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam, phù hợp với tính chất rác của Việt Nam (rác không được phân loại, độ ẩm cao), qua thời gian nghiên cứu và thử nghiệm, Hội Bảo vệ môi trường với sự giúp đỡ của Chi cục Bảo vệ môi trường - Sở Tài nguyên và Môi trường Thanh Hóa và sự cộng tác của Công ty Môi trường Lam Sơn đã nghiên cứu thành công công nghệ tái sử dụng rác thải và đưa vào thực nghiệm tại xã Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân (Thanh Hóa).
Ông Nguyễn Quang Thái (thứ 2 từ trái) là một trong những người đóng góp lớn trong thành công của công nghệ |
Bước đầu, công nghệ này mang lại những kết quả rất tích cực như: trong quá trình xử lý không hề phát sinh mùi hôi, không xuất hiện nước rỉ rác, không ruồi muỗi, khối lượng rác thải phải đốt hoặc chôn lấp giảm đáng kể, không những vậy, chi phí đầu tư ban đầu thấp, sản phẩm thu hồi hoàn toàn có thể tạo giá trị kinh tế cao, đặc biệt hiệu quả với những bãi rác vốn đã quá tải hiện nay như: bãi rác Đông Nam, Sầm Sơn… với công suất từ 30 – 1000 tấn/ngày.
Quy trình vận hành khoa học, hiệu quả
“Trăm nghe không bằng một thấy”, ông Thái dẫn chúng tôi thăm quan khu vực hoạt động công nghệ xử lý rác thải tại Công ty Môi trường Lam Sơn thuộc xã Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa. Tại đây, dây chuyền gần như hoàn toàn tự động bằng máy móc, băng tải, công nhân vận hành nhẹ nhàng chỉ cần 4 người là đủ cho công suất 50 tấn/ngày. Theo quy trình công nghệ gồm 3 công đoạn chính: Công đoạn xé bao, công đoạn ủ vi sinh và công đoạn sàng phân loại.
Ông Nguyễn Duy Bình cùng cộng sự kiểm tra mùn hữu cơ sau khi đã sang phân loại |
Đầu tiên là công đoạn xé bao, rác vận chuyển về phần lớn được chứa trong các túi PP hoặc PE nên phải có công đoạn xé bao bằng thiết bị xé bao để thuận lợi cho công đoạn ủ vi sinh, đảm bảo rác được tiếp xúc với vi sinh. Tiếp đó, công đoạn ủ vi sinh được tiến hành, có thể nói, đây là khâu quan trọng nhất bởi chế phẩm vi sinh phân hủy xenlulo và xenlulozo, được hoà tan trong nước (1kg chế phẩm hòa trong 100 lít nước), phun đều vào rác theo từng lớp, 1kg chế phẩm sử dụng được cho 5 tấn rác. Rác được đánh đống ủ trong 20 - 25 ngày, sau đó rác được đảo trộn rồi ủ tiếp 20 - 25 ngày nữa. Lúc này, nhờ chế phẩm vi sinh mà nhiệt độ trong đống rác ủ sẽ lên tới 70 -80 độ C giúp cho độ ẩm của rác từ 90 - 80% giảm xuống còn 30%.
Dây chuyền gần như hoàn toàn tự động, tiết kiệm chi phí nhân công |
Cuối cùng, rác sau ủ được đưa lên sàng phân loại qua băng tải và được tách thành 3 loại: Mùn hữu cơ; rác thải vô cơ (gạch, đá, thủy tinh…); nilon, nhựa và rác hữu cơ không thể tái chế. Nilon, nhựa và rác hữu cơ không thể tái chế được đưa qua hệ thống quạt thổi, hút để tách riêng nilon và nhựa đưa đi tái chế, rác hữu cơ không thể tái chế đưa vào lò đốt.
Túi nilon và rác thải vô cơ được tách riêng để đốt hoặc làm vật liệu san lấp |
Theo công nghệ này, diện tích đất cần cho công nghệ xử lý từ 0,5 - 1 ha, với công suất hiện tại là 50 tấn/ngày. Trung bình 1 tấn rác sau phân loại thu được 200 - 300kg mùn hữu cơ; 100 - 150kg nilon, nhựa; 100 - 150kg rác hữu cơ không thể tái chế phải đốt; 100 - 150kg rác thải vô cơ làm vật liệu san lấp hoặc đốt. Ngoài những ưu điểm về thân thiện với môi trường, công nghệ này còn gây ấn tượng bởi giá thành đầu tư ban đầu thấp (khoảng 1 tỷ đồng), sản phẩm thu hồi có giá trị kinh tế cao, cụ thể như nilon, nhựa thu hồi có thể bán ngay với giá 1 - 1,5 triệu đồng/tấn, mùn hữu cơ với giá 200.000 - 300.000 đồng/tấn).
Với công suất thử nghiệm là 50 tấn/ngày thì theo tính toán, lãi thu về hàng năm sẽ là 1.048.945.687đ |
Ông Nguyễn Quang Thái, nguyên Chi Cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường, Phó chủ tịch Hội Bảo vệ môi trường Thanh Hóa cho biết: Với hơn 25 năm công tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, hơn ai hết đã hiểu được tầm quan trọng của công tác xử lý, tái chế rác thải sinh hoạt là vô cùng cấp thiết.
Sau những kết quả thành công thu được từ công nghệ tái sử dụng rác thải, ông Thái không giấu được niềm vui: “Suốt nhiều năm qua, tôi luôn trăn trở về vấn đề rác thải nhựa, cũng như việc tái chế rác thải sinh hoạt làm sao để thân thiện với môi trường. Khu vực dây chuyền xử lý không hề có mùi hôi thối hay ruồi muỗi, không gây ô nhiễm như các lò đốt hay chôn lấp thủ công. Vì đây là phương pháp xử lý vi sinh được làm từ dạ dày bò nên chế phẩm này thân thiện với môi trường. Đồng thời, chất thải nhựa và túi nilong được phân loại riêng, lượng rác thải phải đốt đã giảm chỉ còn 30%. Dù dây dây chuyền còn nhiều khâu cần phải cải tiến, song với những thành công ban đầu đạt được, tôi tin rằng mô hình này sẽ sớm được nhân rộng ra toàn quốc”.