Theo PGS. TS. Nguyễn Huy Nga – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Môi trường Sức khỏe (CHERAD), rác thải nhựa đang chiếm tỷ lệ khoảng 8 - 12% trong tổng khối lượng rác thải sinh hoạt. Khoảng 2,8 triệu tấn rác thải nhựa được thải ra môi trường mỗi năm (~ 7.800 tấn/ngày). Trong đó, 80% là túi ni-lông dùng 1 lần, chỉ có 17% túi nhựa được tái sử dụng. Cách thức xử lý rác thải nhựa và rác thải nhựa y tế phổ biến vẫn là bằng cách đốt.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực loại bỏ, đại dịch COVID-19 đã khiến lượng chất thải nhựa tăng đột biến trở lại trong khoảng 3 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, xu hướng các hộ gia đình tăng chi tiêu cho thực phẩm và đồ uống là động lực tăng trưởng chính cho phân khúc bao bì nhựa, trong khi tăng trưởng xây dựng nhà ở và xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn tiếp tục là động lực tăng trưởng cho phân khúc nhựa xây dựng – PGS.TS Trần Huy Nga chia sẻ.
Theo bà Kim Thúy Ngọc – Trưởng phòng Kế hoạch Hợp tác Quốc tế, Viện Chiến lược chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) - Bộ Tài nguyên và Môi trường, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý chất thải tiếp tục được hoàn thiện, đặc biệt sau khi Luật Bảo vệ môi trường 2020 được thông qua.
Theo Nghị định 08/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, bắt đầu từ năm 2026, Việt Nam sẽ không sản xuất và nhập khẩu túi ni lông khó phân hủy sinh học có kích thước nhỏ hơn 50cm x 50cm và độ dày một lớp màng nhỏ hơn 50 µm, trừ trường hợp sản xuất để xuất khẩu hoặc sản xuất, nhập khẩu để đóng gói sản phẩm, hàng hóa bán ra thị trường. Việt Nam cũng sẽ không lưu hành và sử dụng sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học (gồm túi ni lông khó phân hủy sinh học, hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm) tại các trung tâm thương mại, siêu thị, khách sạn, khu du lịch.
Sau năm 2030, dừng sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần (trừ sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái Việt Nam), bao bì nhựa khó phân hủy sinh học (gồm túi ni lông khó phân hủy sinh học, hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm) và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa.
Để thực hiện lộ trình này, Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy hoạt động tái chế chất thải, như: ưu đãi về đất đai, ưu đãi, hỗ trợ về vốn đầu tư, ưu đãi về thuế, phí và lệ phí và trợ giá sản phẩm, dịch vụ về BVMT. Công cụ kinh tế cho các hoạt động BVMT đã được quy định trong Luật BVMT 2020 và Nghị định 08. Bộ TN&MT cũng đang xây dựng quy định về tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh, làm cơ sở để huy động nguồn lực cho các hoạt động BVMT, hoạt động tái chế chất thải nhựa.
Mặc dù vậy, bà Ngọc cũng chỉ ra những hạn chế, đó là việc thiếu các hướng dẫn cụ thể để có thể tiếp cận đến các ưu đãi; thiếu các hướng dẫn về lựa chọn công nghệ tái chế, xử lý chất thải rắn; thiếu tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với các sản phẩm tái chế. Các quy định liên quan đến trách nhiệm tái chế, trách nhiệm xử lý của nhà sản xuất, nhập khẩu tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu cần có hướng dẫn cụ thể hơn để có thể áp dụng trong thực tiễn.
Bổ sung dẫn chứng thực tế về những vướng mắc trong thu gom, tái chế rác thải nhựa, các phóng viên nữ thuộc Mạng lưới "Phóng viên nữ hành động giảm thiểu rác thải nhựa và ô nhiễm nhựa" đã chia sẻ về hành trình tác nghiệp tại làng nghề tái chế rác thải nhựa ở Hưng Yên, hay nhà máy xử lý rác trăm tỷ phải dừng vận hành do không đáp ứng được yêu cầu về công nghệ hiện đại.
Trong phiên đối thoại với chủ đề “Các định hướng chính sách và truyền thông vận động chính sách để giảm thiểu và tái chế rác thải nhựa”, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng cho rằng, những vấn đề liên quan đến phân loại, thu gom, xử lý rác đã được nêu ra từ cách đây 10 năm, hệ thống chính sách pháp luật cũng đã được sửa đổi, nhưng thực tiễn hành vi của người dân, doanh nghiệp và tác động đến môi trường vẫn chưa chuyển biến nhiều. Trong thời gian tới, báo chí cần nâng cao hơn nữa vai trò tuyên truyền chính sách pháp luật, là cầu nối chính sách với người dân và thúc đẩy chính sách đi vào cuộc sống.
Theo các chuyên gia, việc cần làm hiện nay là đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng cũng như tác hại khi sử dụng túi ni lông, đồ nhựa; vận động người dân “nói không với túi nilon”, vứt rác đúng nơi quy định và chủ động phân loại rác ngay tại nguồn; tăng thuế và cấp phép chặt chẽ với hệ thống kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất sản phẩm nhựa; nói “không” việc nhập rác thải từ nước ngoài về tái sử dụng…
Về chính sách, cơ quan quản lý cần có hướng dẫn về áp dụng kinh tế tuần hoàn đối với rác thải nhựa, phát triển mạng lưới nghiên cứu và đổi mới về nhựa; cũng như phát triển các tiêu chuẩn kỹ thuật cho các sản phẩm nhựa và nhựa tái chế. Việt Nam cũng cần tham gia các nỗ lực hành động quốc tế về ô nhiễm nhựa đẩy mạnh phát triển, ứng dụng vật liệu, sản phẩm thay thế vật liệu, sản phẩm nhựa.
Buổi đối thoại là hoạt động thứ 9 trong khuôn khổ dự án “Phóng viên nữ hành động giảm thiểu rác thải nhựa và ô nhiễm nhựa”. Dự án do Mạng lưới Báo chí Toàn cầu (Earth Journalism Network) tài trợ, phối hợp cùng Viện Chiến lược Chính sách TN&MT, Liên minh Doanh nghiệp vì Môi trường Việt Nam (VB4E), Mạng lưới Đối tác hành động về nhựa và sức khỏe (PHA) triển khai. Mục tiêu nhằm nâng cao năng lực, sự tham gia và lãnh đạo của các phóng viên nữ (đặc biệt là các phóng viên trẻ) trong điều tra, đưa tin về ô nhiễm nhựa và rác thải nhựa. Đồng thời, thúc đẩy hợp tác giữa các bên liên quan như cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, chuyên gia, các nhà nghiên cứu/nhà hoạt động môi trường và các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc giảm thiểu rác thải nhựa và ô nhiễm nhựa.