Bình Dương: Gắn khai thác đá VLXD với phát triển bền vững
(TN&MT) - Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong nhiều năm qua, Bình Dương là địa phương có hạ tầng giao thông tốt nhất cả nước. Hoạt động khai thác đá vật liệu xây dựng (VLXD) trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã góp phần quan trọng vào sự phát triển hạ tầng giao thông, công nghiệp và dân dụng của tỉnh.
Thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển
Bình Dương là tỉnh có tiềm năng tương đối lớn về khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (VLXDTT). Ngành khai khoáng của tỉnh trong nhiều năm qua đã cung ứng nguyên liệu cho xây dựng cơ sở hạ tầng của tỉnh và khu vực lân cận, góp phần tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và khu vực phía Nam nói chung.
Theo thống kê của Sở Công Thương tỉnh Bình Dương, tính đến ngày 25/2/2023, trên địa bàn tỉnh có 32 mỏ được phép khai thác và thăm dò đá VLXD với tổng diện tích hơn 1.046 ha, trữ lượng phê duyệt hơn 710 triệu m3. Toàn tỉnh có 26 mỏ đá đã được cấp giấy phép khai thác đá VLXD đang hoạt động với tổng diện tích 777 ha và trữ lượng được phép khai thác 377,1 triệu m3. Các mỏ đá VLXD tỉnh Bình Dương tập trung chủ yếu tại 2 cụm mỏ là: Thường Tân - Tân Mỹ thuộc huyện Bắc Tân Uyên với 13 mỏ và cụm mỏ thuộc huyện Phú Giáo với 4 mỏ.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương năm 2020 cho thấy, Bình Dương là một tỉnh có cơ cấu kinh tế công nghiệp, thương mại dịch vụ và nông nghiệp. Trong cơ cấu đó, đóng góp của khai thác đá VLXD vào tổng thu chi ngân sách của huyện Phú Giáo khoảng 87,65/833 tỷ đồng (quý III/2020), và với huyện Bắc Tân Uyên khoảng 210,3/2.022 tỷ đồng (6 tháng đầu năm 2020).
Trong vài năm trở lại đây, kinh tế huyện Phú Giáo và Bắc Tân Uyên đang dần dịch chuyển cơ cấu, lấy công nghiệp là trọng điểm, trong đó công nghiệp khai thác khoáng sản và sản xuất VLXD cùng với công nghiệp chế biến nông sản đóng vai trò then chốt. Điều này đòi hỏi công tác khai thác đá VLXD vừa phải phát huy vai trò và thế mạnh nhưng cũng cần phải lưu ý tới các vấn đề về môi trường và phát triển bền vững tránh ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất chế biến nông sản của địa phương.
Tính tới quý IV/2020, huyện Phú Giáo có gần 600 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, với 5 cụm công nghiệp đã hoàn thiện cơ sở hạ tầng và đi vào hoạt động. Việc phát triển ngành công nghiệp khai khoáng tạo điều kiện cho phát triển xây dựng, đồng thời nhu cầu của sản xuất khai thác cũng đòi hỏi phát triển về cơ khí, chế tạo và tự động hóa, đó là động lực cho những ngành công nghiệp khác có điều kiện phát triển cung ứng.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông và đô thị hóa phục vụ phát triển công nghiệp, Bình Dương nói riêng và khu vực Đông Nam bộ nói chung cần một lượng VLXD khá dồi dào. Theo Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tỉnh Bình Dương giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030, tổng diện tích quy hoạch đá VLXD vào khoảng 1.090 ha, trong đó: khai thác 880,45 ha và thăm dò, khai thác gần 210 ha; quy hoạch sét gạch ngói với diện tích 719,39 ha, gồm khai thác 419,85 ha và thăm dò, khai thác 299,54 ha...
Như vậy, việc khai thác đá VLXD vừa tạo nguồn thu cho địa phương phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ vừa là lĩnh vực sản xuất cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào, đó là điều kiện thuận lợi và tạo động lực cho ngành xây dựng phát triển.
Về lĩnh vực thương mại, việc phát triển khai thác mỏ sẽ tạo các điều kiện thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, giao thương để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đáp ứng nhu sinh hoạt khi dân số gia tăng. Điều này thúc đẩy phát triển phát triển về kinh tế tiểu thương (tại huyện Bắc Tân Uyên uớc tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 2.537 tỷ đồng, tăng 14,13% so với cùng kỳ năm 2019).
Hoạt động khai thác khoáng sản thu hút gần 1.500 lao động
Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, hoạt động khai thác khoáng sản cũng góp phần hiệu quả vào công cuộc xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Để làm rõ điều này, nhóm nghiên cứu đến từ Phòng Quản lý năng lượng và Kỹ thuật an toàn, Sở Công Thương tỉnh Bình Dương và Khoa Mỏ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất đã khảo sát thực địa, điều tra tham vấn cộng đồng, thống kê, ma trận môi trường. Theo đó, huyện Phú Giáo có dân số khoảng 90.843 người, mật độ dân số trung bình 167 người/km2, chủ yếu tập trung tại thị trấn Phước Vĩnh và các xã Phước Hòa, Vĩnh Hòa, An Bình, là nơi phát triển công nghiệp trên địa bàn huyện.
Dân số năm 2021 của Huyện Bắc Tân Uyên là 74.867 người, mật độ dân số đạt 187 người/km². Cơ cấu dân số lao động trên địa bàn huyện chủ yếu là nông dân do ngành nông lâm nghiệp chiếm tỷ trọng cao, tỷ lệ dân thành thị chiếm rất nhỏ chủ yếu tại vùng trung tâm huyện thị trấn Tân Thành.
Việc phát triển các dự án khai thác mỏ sẽ kéo theo việc gia tăng dân số cơ học, một lượng dân cư sẽ từ các khu vực khác sẽ di cư tới để tham gia vào hoạt động của dự án. Với 26 mỏ đã được cấp phép hoạt động trên địa bàn tỉnh đã thu hút gần 1.500 lao động, trong đó lao động địa phương chỉ chiếm 12,6%, còn lại là lao động ngoài địa phương.
Ông Phan Hồng Việt - Phòng Quản lý năng lượng và Kỹ thuật an toàn, Sở Công Thương tỉnh Bình Dương, tác giả chính của nghiên cứu chỉ rõ: Khai thác khoáng sản đã tạo điều kiện công ăn việc làm cho khoảng 1.500 lao động trong các lĩnh vực khai thác, cơ khí, điện, kế toán... và các lao động ăn theo các dịch vụ cho khai thác mỏ và tiêu thụ khoáng sản trên địa bàn tỉnh.
Thu nhập của các lao động hoạt động tại các mỏ khai thác đá dao động trong khoảng 82-96 triệu/năm cao hơn mức thu nhập bình quân của địa phương khoảng 1,5 lần. Thu nhập bình quân đầu người huyện Phú Giáo năm 2019 ở mức 60 triệu/năm (gấp 1,77 lần 2014); thu nhập bình quân năm 2019 của toàn huyện Bắc Tân Uyên đạt 61 triệu đồng/người/năm (gấp 1,88 lần năm 2014).
Tổng hợp đánh giá tác động môi trường kinh tế, xã hội của hoạt động khai thác đá VLXD trên địa bàn tỉnh Bình Dương, nhóm nghiên cứu cho biết hiệu quả tích cực chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với các tác động tiêu cực. Tuy vậy, để đảm bảo ổn định và phát triển bền vững, nhóm nghiên cứu đề xuất các cơ quan chức năng tỉnh Bình Dương, các đơn vị khai thác cần xem xét đưa ra các chủ trương, chính sách mạnh mẽ hơn nữa trong vấn đề bảo vệ môi trường, chính sách bảo vệ sức khỏe cộng đồng, chính sách dân tộc thiểu số (DTTS) và chính sách phát triển nông nghiệp bền vững.
Mặt khác, một số tác động và rủi ro tiêu cực về môi trường và xã hội cũng có thể xảy ra trong hoạt động khai thác mỏ. Tuy nhiên, những tác động này được dự đoán ở mức độ vừa phải và có thể quản lý được thông qua kế hoạch quản lý môi trường và xã hội được đề xuất trong các báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án khai thác.
Nhóm nghiên cứu khuyến nghị các mỏ khai thác đá VLXD trên địa bàn tỉnh cần có các biện pháp quy hoạch tổng thể để khai thác và cải tạo phục hồi môi trường sau khai thác nhằm giảm thiểu các tác động xấu tới môi trường; thực hiện đóng thuế và đóng góp vào quá trình xã hội hóa đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, giao thông vận tải của khu vực, thực hiện tốt chính sách sàng lọc DTTS, đảm bảo thu nhập cho người lao động tận dụng nguồn lao động địa phương, và chế độ việc làm của người lao động khi thực hiện đóng cửa mỏ; tích cực kết hợp với chính quyền sở tại đảm bảo điều kiện an ninh trật tự, bài trừ các tệ nạn xã hội, thúc đẩy an sinh xã hội.
Theo số liệu Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tỉnh Bình Dương giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong giai đoạn quy hoạch 2011-2015, tổng thu ngân sách từ hoạt động khoáng sản toàn tỉnh Bình Dương gần 1.754 tỷ đồng và ước tính đến năm 2030 là 2.102,76 tỷ đồng. Đây là một nguồn lực lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương cũng như đầu tư cơ sở hạ tầng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng công nghiệp hiện đại.