Lịch sử gọi tên làng
(TN&MT) - Năm 1924, chiếc trống đồng đầu tiên được tìm thấy tại làng Đông Sơn bởi ông Nguyễn Văn Nắm để rồi sau đó một loạt các hoạt động khảo cổ được tiến hành và đi đến kết luận về một nền văn hóa khởi phát từ đất này. Hơn 100 năm, Đông Sơn vẫn đứng đó, nhỏ bé khiêm nhường nhưng tàng ẩn trong mình những sức mạnh nội sinh…
Ẩn mình giữa những ngọn núi bên sông Mã, ngôi làng cổ ấy nằm trong quần thể di tích Hàm Rồng - vùng đất hội tụ nhiều yếu tố đặc biệt. Hẳn cũng như nhiều người khác, điều quan tâm đầu tiên của tôi nằm ở chỗ đây là ngôi làng mang tên cả một nền văn hóa gắn với lĩnh vực khảo cổ học - nền văn hóa Đông Sơn. Lật giở từng trang sử của làng, tôi chợt nhận ra, trong Đông Sơn còn những Đông Sơn khác ẩn trong những lớp trầm tích.
Có nhiều lối dẫn vào làng Đông Sơn, cũ và mới. Mới nhất là con đường hiện đại vắt ngang núi Rồng phía sau làng, ôm trọn Đông Sơn từ trên cao.
Bây giờ thì làng Đông Sơn đã mở rộng, thêm nhiều xóm mới, nhưng khung kết cấu từ thuở dựng làng vẫn còn nguyên bản. Từ lưng chừng núi Rồng nhìn xuôi theo thế đất, đầu làng là Chùa Đông Sơn, cũng có người gọi là Chùa Phạm Thông. Chùa được xây dựng từ cuối thời Lý. Ngôi chùa đã đi vào thơ ca từ rất sớm với tên gọi Bồ Đề tự, hiện vẫn còn bia lưu lại qua bản khắc bài thơ “Thượng Sơn vi ký”.
Xưa chùa nằm bên trang Đông Cương thượng, là nơi thờ cúng chung của hai trang Đông Cương thượng và Đông Cương hạ, vốn là cơ sở để hình thành nên làng Đông Sơn sau này. Sau chiến tranh, chùa được dựng lại nhưng cảnh sắc sơ sài, không có sư có tiểu. Từ lá đơn đề nghị tới Giáo hội Phật giáo tỉnh của dân làng Đông Sơn mà chú tiểu đã “bén duyên” chùa, ở lại. Chú tiểu đó chính là Đại đức Thích Nguyên Phong - vị sư trụ trì đang tiếp chuyện chúng tôi.
Đại đức cùng chúng tôi dạo bước qua 4 ngõ lát đá và gạch được đặt tên theo những giá trị sống mà người Đông Sơn xưa quan niệm: Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng, thăm những ngôi nhà cổ của làng, cảm giác như lạc giữa miền huyền thoại. Đi giữa Đông Sơn hôm nay, tôi cảm nhận rõ những thâm u, âm vọng của thời gian nơi mảnh đất phát tích một nền văn hóa. Lịch sử làng được bắt đầu từ ngôi chùa nhuốm màu huyền tích theo bước chân thầy Nguyên Phong lan vào từng ngõ nhỏ.
*
Hiện ở Đông Sơn còn 13 ngôi nhà cổ, trong đó, còn nguyên vẹn nhất và được bảo tồn tốt nhất là ngôi nhà của gia đình cụ Lương Trọng Duệ. Cụ Duệ nay đã mất, người kế tục cụ gìn giữ, chăm sóc cho ngôi nhà là con trai cụ, ông Lương Thế Tập. Ông Tập luôn có ý thức giữ gìn những di sản của gia đình nên ngay từ những năm còn công tác ở tỉnh, ông đã cùng với cha bàn phương hướng bảo tồn, trùng tu sao cho ngôi nhà giữ lại hình dáng nguyên bản nhất. Năm 2006, UBND phường Hàm Rồng đã đề nghị TP. Thanh Hóa báo cáo tỉnh Thanh Hóa xem xét, xếp hạng cho 13 ngôi nhà cổ tại Đông Sơn. Tỉnh đã giao Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch phối hợp với các ngành chức năng thẩm định công nhận ngôi nhà của gia đình ông Tập còn khá nguyên vẹn, được xây dựng từ đầu Triều Nguyễn, cách nay đã 200 năm, đủ điều kiện để xếp hạng di tích.
Ngoài ngôi nhà của ông Tập, 12 ngôi nhà cổ còn lại ở Đông Sơn hiện nay vẫn được giữ nguyên trạng, có ngôi còn khá nguyên vẹn nhưng có những ngôi đã xuống cấp. Việc bảo tồn như thế nào vẫn còn nhiều lúng túng với gia chủ và địa phương. Con cháu thì ngày càng đông, mỗi một người trưởng thành lại chia nhỏ ra một chút, gây ra sự chia năm xẻ bảy. Mỗi năm, những mái nhà, kèo cột lại phủ thêm một lớp thời gian, lịch sử lại nhích thêm một chút. Năm 2022, lãnh đạo thành phố đã xuống tìm hiểu thực tế và khảo sát tại Đông Sơn để bàn hướng bảo tồn, đầu tư, nâng cấp làng cổ.
Hai cụ thân sinh ông Lương Thế Tập đều người làng Đông Sơn, thuộc hai họ lớn của làng. Bố ông họ Lương Trọng, mẹ ông họ Dương. Bố ông là đời thứ 14 trong dòng họ, đến ông là đời thứ 15 sinh cơ lập nghiệp tại làng. Ông là con trưởng trong gia đình có 6 anh chị em. Dẫn chúng tôi tham quan khu trưng bày hiện vật mà mình kì công sưu tầm suốt mấy chục năm gắn với kí ức của người Đông Sơn, chỉ vào khu vực bày rất nhiều những viên đá to nhỏ khác nhau có ghi tên các địa phương trong cả nước, ông Tập kể, từ sau khi đất nước giải phóng, mỗi chuyến đi đến các vùng miền, ông đều mang về một viên đá. Lâu dần, số đá mang về từ các tỉnh đầy lên, những viên đá đều gắn với những địa danh nổi tiếng và ý nghĩa.
Khi Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, cây cầu Hàm Rồng, huyết mạch giao thông Bắc - Nam là mục tiêu bị đánh phá nghiêm trọng. Cả Hàm Rồng - Đông Sơn suốt bảy, tám năm là một chiến trường. Cha con ông Lương Trọng Duệ - Lương Thế Tập cũng đã trải qua những ngày tháng ấy. Ông Tập tham gia dân quân, đã lên thay pháo thủ trên đồi C4 chiến đấu. Bom đạn ác liệt, bộ đội bị thương, hi sinh, nhân lực của làng được điều động lên thay, do được huấn luyện và chuẩn bị phương án trước, dân quân nào cũng có thể làm pháo thủ. Số đàn ông khác thì tiếp đạn, phụ nữ thì nấu cơm, phục vụ nước uống cho bộ đội, dân quân du kích. Những năm tháng ấy, có thể nói, cả làng ra trận, cả làng đánh giặc. Cả làng Đông Sơn khi đó chỉ có một chi bộ Đảng, người Đông Sơn là chính, trong đó cụ Duệ là một trong những đảng viên nòng cốt ở làng.
Ông Lương Thế Tập lớn lên, nhập ngũ, rồi thoát ly, công tác xa nhà. Năm 2010, ông được giao phụ trách Trung tâm nuôi dưỡng người có công và các đối tượng ảnh hưởng chất độc da cam của tỉnh. Dù bản thân đã có gia đình và nhà riêng ở trung tâm thành phố nhưng ông vẫn siêng đi về Đông Sơn, cùng bố chăm chút ngôi nhà xưa. Trước khi mất, cụ Lương Trọng Duệ có viết di chúc giao lại cho con trai trưởng chăm sóc, gìn giữ ngôi nhà, thờ cúng gia tiên, trông coi di sản ông cha để lại nhằm lưu truyền cho con cháu sau này. Hiện nay ngôi nhà là nơi sum họp gia đình, dòng họ trong mỗi dịp hội họp, giỗ chạp.
“Tôi có một tâm huyết kế thừa tâm nguyện của cha. Sinh thời, cụ tôi dặn dò lại rằng, tổ tiên bao đời nay đã xây dựng được nền tảng gia đình, làng xóm với những ngôi nhà cổ trên 200 năm, các cụ đã để lại di sản như vậy, hậu thế cần giữ gìn những giá trị ấy” - Ông Tập giãi bày. Ông cũng mong muốn mở rộng, bảo tồn kí ức một thế hệ gắn với lịch sử kháng chiến, bảo vệ quê hương đất nước. Gần đây, khách xa gần đến thăm làng, về Đông Sơn đã tìm đến nhà ông, đó như một nguồn động viên để ông tiếp tục sự nghiệp chăm lo di sản.
*
Nhìn theo phong thủy thì Đông Sơn yên hàn thế, nhưng không hẳn. Đất này đã dậy tiếng bom, tiếng pháo, đã từng đá nát xương phơi. Nhà sập đã đành, những công trình đền chùa, miếu mạo, văn chỉ võ chỉ cũng bị oanh tạc, có công trình bị xóa sổ. Những năm đạn bom, chùa Phạm Thông đã bị phá hủy chỉ còn một góc hậu cung cùng nền xưa móng cũ kề ngay sau cổng trên núi xuống. Rồi từ nền móng ấy, chùa được dựng lại khi mọi điều kiện đã hội tụ đủ. Làng lại có chùa. Tiếng tụng kinh, tiếng mõ lại góp vào âm thanh trong nhịp sống của làng. Các vãi lại có chỗ lại qua ngày rằm, mùng một. Một góc tâm hồn, một góc đời sống tinh thần của người dân Đông Sơn đã được gọi về, bồi tụ. Bên dòng sông Mã, tiếng chuông chùa lại ngân vang.
Đông Sơn - Hàm Rồng những năm chống Mỹ đã trở thành những từ khóa quen thuộc. Suốt bảy, tám năm ròng rã, Mỹ đã trút không biết bao nhiêu bom đạn xuống mảnh đất này. Có một Đông Sơn gắn với lịch sử chiến tranh cách mạng, cụ thể là gắn với cuộc chiến bảo vệ huyết mạch giao thông cầu Hàm Rồng trên tuyến quốc lộ 1A nối miền Bắc với miền Nam. Tử huyệt giao thông này đã là nơi so trí, đọ tài, thi gan đọ danh dự giữa siêu cường ngạo mạn và một dân tộc nhỏ bé mà gan góc, không chịu khuất phục. Chỉ một cây cầu nhỏ bé nối đôi bờ sông Mã mà trong gần chục năm giao tranh hút đến hàng chục tấn bom. 117 máy bay Mỹ đã vì cây cầu này mà đã bị loại khỏi đội hình chiến đấu.
Địa thế Đông Sơn đã khiến làng trở thành làng kháng chiến. Kháng chiến tại chỗ, mặt đối mặt với kẻ thù từ trên trời, không phải đi sơ tán như các làng khác quanh khu vực cầu Hàm Rồng. Làng có nhiều núi thì cũng có nhiều hang. Hang đá lớn có thể chứa mấy trăm người. Hang đá nhỏ cũng chứa được vài chục người. Vì thế, cứ máy bay vào oanh kích, có báo động thì dân vào hang đá trú ẩn, hết báo động lại ra tu sửa hầm hào công sự, tải đạn, tải thương phục vụ bộ đội chiến đấu…
Nhà thơ Huy Cận khi về Đông Sơn thực tế cuộc sống chiến đấu tại đây đã có bài thơ “Chào Đông Sơn” với những câu: “Đông Sơn thôn anh hùng đánh Mỹ/ Nơi sơ sinh nền văn hóa quê mình/ Trống đồng vọng từ ba mươi thế kỉ/ Lấp lánh trong luồng mắt chớp ra đa". Cũng vì bài thơ đó mà sau này người Đông Sơn luôn nghĩ làng mình là anh hùng, cũng chẳng ai nghĩ đến việc xin phong tặng nữa, thành ra trong khi các làng Nam Ngạn, Yên Vực đều được phong anh hùng trên giấy trắng mực đen thì Đông Sơn, với rất nhiều những cống hiến, thành tích và tinh thần anh dũng trong chiến đấu cùng nhiều hi sinh mất mát nhưng mãi năm 1998, khi phường Hàm Rồng được phong danh hiệu Anh hùng thì Đông Sơn cũng mới được anh hùng theo vì làng thuộc phường.
Bởi có những điều vô cùng quan trọng, thiêng liêng. Những hiện vật tìm thấy ở Đông Sơn những năm cuối nửa đầu thế kỉ XX đã khiến nhiều nhà khảo cổ nước ngoài nghĩ đến một nền văn hóa bắt đầu từ nơi đây. Ngay trong những năm chiến tranh, Đông Sơn vẫn có nhiều đoàn khảo cổ về làm việc. Một nhà khảo cổ đến từ Hà Nội đã nói với những pháo thủ đồi C4 rằng, “tuyệt diệu quá, trận địa pháo của các đồng chí đang đặt trên nền văn hóa Đông Sơn mấy nghìn năm của dân tộc”. Đó là một sự thật đã được thế giới ghi nhận. Người cán bộ khảo cổ tâm huyết ấy sau đó đã hi sinh trên chính trận địa C4 trong một trận đánh. Công cuộc khảo cổ của ông đã được các đồng nghiệp tiếp tục cho đến sau ngày đất nước hòa bình, Bắc Nam về một mối.
*
Ông Nguyễn Vệ - Trưởng làng Đông Sơn dẫn tôi đi dọc bờ sông Mã đến vị trí phát tích Trống đồng Đông Sơn. Anh ruột của ông nội ông là người đã ghi tên vào lịch sử gắn với việc định danh một nền văn hóa - cụ Nguyễn Văn Nắm. Cụ Nắm chính là người tìm thấy chiếc trống đồng Đông Sơn đầu tiên vào năm 1924.
Theo lời ông Nguyễn Vệ, ông Nắm khi đó 34 tuổi, thường câu ở xứ Đồng Ra bên rìa làng, dọc sông Mã. Đây là phía lở, bờ sông dựng đứng. Thế rồi buổi câu ấy, ông nhìn thấy ở bờ sông có một cái hõm ăn sâu vào. Ông soi đèn vào bên trong thì phát hiện ra một số đồ vật bằng đồng, trong đó có một chiếc trống hình trụ và một bộ ấm chén. “Vì là bờ lở nên ông nhà tôi mới thấy lộ ra một cái hàm. Ông vạch cỏ soi đèn vào hàm mới phát hiện ra trống đồng chứ không phải mưa làm lộ ra như người ta vẫn nói”, ông Vệ giải thích.
Những đồ vật bằng đồng ông Nắm tìm thấy năm 1924 ấy đã được một người Pháp tên là L.Pajot mua lại. Sau đó, sự việc được báo lên Trường Viễn đông Bác Cổ và nhà khảo cổ Pajot được ủy nhiệm tiến hành khai quật ở Đông Sơn. Những cổ vật tìm thấy tại Đông Sơn được công bố vào năm 1929 đã gây tiếng vang lớn, thu hút sự chú ý của giới khảo cổ đương thời. Nhiều học giả đã xác nhận rằng các di vật đó thuộc về một nền văn hóa riêng biệt. Đặc biệt, năm 1933, học giả người Áo là R.Heine - Geldern đề nghị đặt tên nền văn hóa đồ đồng là văn hóa Đông Sơn. Kể từ đó, thuật ngữ văn hóa Đông Sơn được dùng phổ biến trên thế giới để chỉ thời kì văn minh đầu tiên của người Việt cổ, mốc thời gian ra đời của Nhà nước Văn Lang. Nền văn hóa ấy được đặt tên theo tên địa phương nơi phát hiện các dấu tích đầu tiên của nó. Và tên của ngôi làng nhỏ bên bờ sông Mã đã trở thành tên gọi của một nền văn hóa.
Lịch sử đã gọi tên làng.
Đông Sơn thôn xưa thuộc Đông Sơn xã, Đông Sơn huyện, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa. Nay làng Đông Sơn thuộc phường Hàm Rồng, Thành phố Thanh Hóa. Đất Đông Sơn đã qua 6 lần “mổ xẻ” để tìm kiếm những thông điệp từ lịch sử từ năm 1954, khi miền Bắc hòa bình, qua đó một lượng hiện vật lớn đã được tìm thấy, đủ nói lên những tiếng nói khoa học khảo cổ để gọi tên một nền văn hóa đánh dấu thời kì văn minh của người Việt cổ khởi phát tại đất này.
Đi giữa Đông Sơn hôm nay, từng tấc đất vẫn như rì rầm những câu chuyện của lịch sử…