Xã hội

Luận về cây lúa

PGS, TS. Lê Anh Tuấn - Đại học Cần Thơ 29/01/2025 - 11:15

(TN&MT) - Lúa gạo là thực phẩm chính cho bữa ăn hằng ngày của hầu hết người Việt Nam.

ban-sao-cua-truong-hoc-sinh-thai.png

PGS, TS. Lê Anh Tuấn - Đại học Cần Thơ

Lúa gạo là thực phẩm chính cho bữa ăn hằng ngày của hầu hết người Việt Nam. Có thể nói, nền nông nghiệp lúa nước đã đi theo dân tộc Việt trong suốt chiều dài lịch sử. Nếu xem đất nước Việt Nam có từ thời Hùng Vương với truyền thuyết dân gian “bánh dầy, bánh chưng” của Liêu Lang dâng lên vua Hùng thì chứng tỏ dân ta đã biết trồng lúa và lấy sản phẩm gạo làm ra thực phẩm từ khoảng 4.000 năm trước…

Bức tranh lúa gạo trên toàn cầu

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), hơn 50% dân số thế giới sử dụng gạo trong chế độ ăn thường xuyên và gạo cung cấp khoảng 20% lượng calories cho con người trên thế giới. Lượng tiêu thụ gạo toàn cầu tiếp tục tăng - vượt quá khoảng 520 triệu tấn/năm. Lúa (gồm cả lúa gạo và lúa mì các loại) được xem là 1 trong 5 (ngũ cốc) đến 6 (lục cốc) loại thực phẩm chính của con người, các nhóm cây kia là các giống khác nhau của nhóm bắp, khoai, đậu, kê, cao lương. Phần lớn, có 2 nhóm lúa phổ biến nhất là lúa châu Á (Oryza sativa), và lúa châu Phi (Oryza glaberrima), vì 2 lục địa này là nơi trồng lúa nhiều nhất.

Một số tài liệu khảo cổ và nghiên cứu về lịch sử cây lúa đã cho rằng, cây lúa hoang dại ban đầu đã hiện diện hơn 13.500 năm ở châu Á, được thuần hóa thành cây trồng lương thực ở Trung Hoa cách đây chừng 9.000 năm ở lưu vực sông Dương Tử và khoảng 3.000 năm trước ở vùng đất Tây và Trung Phi Châu, một số ở đồng bằng sông Nile.

Ở vùng nhiệt đới, lúa gần như có thể trồng được quanh năm, cả mùa nắng và mùa mưa. Đến nay, các nhà khoa học đã xác định được hơn 120.000 loại lúa gạo trên thế giới, chúng được phân loại theo mức độ cứng hay dẻo trong xay xát, kích thước hạt dài, ngắn hoặc tròn, hàm lượng tinh bột và mùi vị. Hột lúa sau khi xay xát sẽ cho các thành phần tách rời như gạo, tấm, cám và vỏ trấu. Hạt gạo có thể có màu trắng, màu bạc, cả màu nâu, đỏ, tím hoặc đen.

1(2).jpg

Theo số liệu World Population Review (2024), Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia sản xuất lúa nhiều nhất, đồng thời cũng là 1 trong 5 quốc gia tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh về lượng gạo tiêu thụ/người/năm, Việt Nam đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Bangladesh (Bảng 1).

Lúa gạo trong lịch sử canh nông và văn hóa ở Việt Nam

Lúa gạo là thực phẩm chính cho bữa ăn hằng ngày của hầu hết toàn thể người Việt Nam. Có thể nói, nền nông nghiệp lúa nước đã đi theo dân tộc Việt trong suốt chiều dài lịch sử. Nếu xem đất nước Việt Nam có từ thời Hùng Vương thì truyền thuyết dân gian “bánh dầy, bánh chưng” của Liêu Lang dâng lên vua Hùng là một chứng minh dân ta đã biết trồng lúa và lấy sản phẩm gạo làm ra thực phẩm từ khoảng 4.000 năm trước.

Trên di tích trống đồng Ngọc Lũ, ngoài hình ảnh mặt trời và các chiến binh, đàn chim lạc, loài chim nước trên các cánh đồng, nhà cửa và cảnh sinh hoạt, còn có hình khắc chạm người giã gạo và quai của trống đồng hình bông lúa cho thấy người cổ Việt Nam đã biết canh tác lúa nước. Trong nếp sống và phong tục tập quán, chén cơm đi liền cuộc đời con người. Người mẹ sinh con, gia đình phải nấu cơm nấu cháo bồi dưỡng sức lực, trẻ con bị thiếu sữa thì nước cơm nấu pha thêm một chút đường làm thức ăn dưỡng nhi. Thậm chí khi có người chết thì trên bàn thờ cũng phải có chén cơm cúng cho người ra đi an lòng. Giỗ tổ tiên, cha mẹ, cúng đất trời ngày Tết đều không quên chén cơm trên bàn cúng. Thậm chí, người Việt đi xa tổ quốc, định cư lâu năm ở nước ngoài, gặp lại đồng hương đều có câu hỏi thăm một cách ân cần “Ăn cơm chưa?”.

Nghề nông là một nghề vất vả thời xưa, nên hạt gạo được người dân vô cùng trân quý: “Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Lúc thời buổi kinh tế, xã hội khó khăn thì nói thời “Gạo châu củi quế”. Cầu nguyện với thời tiết thì mong: “Trời mưa cho lúa thêm bông/ Cho đồng thêm cá, cho sông thêm thuyền”. Theo Đại Việt toàn thư, nhà vua Lê Đại Hành đã lần đầu tiên làm lễ Tịch Điền vào đầu xuân năm 987 bằng tế cúng Thần Nông và nghi thức cày ruộng đầu xuân để khuyến khích dân chúng bắt đầu vụ mùa sản xuất trong năm. Về sau, các đời vua nhà Lý, nhà Trần... đều tiến hành lễ Tịch điền rất trọng thể. Thời nhà Nguyễn, vua Gia Long và Minh Mạng đã tiến hành làm lễ Tịch điền như một đại lễ đầu năm của vương triều.

a1-lua.jpg

Từ khi đất nước ta chính thức độc lập, hình ảnh cây lúa luôn hiện diện trên quốc huy, đồng tiền, cho thấy vai trò của cây lúa trong văn hóa dân tộc. Trong một số quy định thời phong kiến, lương bổng quan quân triều đình hay thuế má người dân, xử phạt đều quy ra trọng lượng hay dung tích lúa như một quy chiếu chuẩn về kinh tế nông nghiệp và quản trị hành chính quốc gia thời bấy giờ. Tất cả triều đại chính thể nào ở Việt Nam, đều có xây dựng các kho thóc, kho lương. Vua Gia Long, vị vua đầu tiên của triều Nguyễn đã quy định các đơn vị đo lường gạo chính thức của cả nước với các tên gọi phương, hộc, vuông, thăng, bát và cân. Trong giao dịch giữa người dân với nhau, nếu đong bằng lúa (thóc) thì người ta dùng hộc (cân năng là 1 tạ), còn đong gạo thì dùng vuông. Một hộc lúa, khi xay ra gạo thì đong đầy 1 vuông.

Ở một số địa phương khác từ Quảng Trị trở ra còn có các dụng cụ đong gọi là đấu, ang, thưng… Trong miền Nam, thì ngoài đơn vị đo chiều dài, diện tích như tầm, vuông, công thì đong gạo còn đơn vị có tên là giạ (cỡ 40 lít), táo, lon. Người miền Nam thường có tính phóng khoáng, ngoài chuyện tính chục trái cây, không phải là mười (10), mà có thể là 12, 14 thậm chí 16. Trong đong gạo cũng vậy, có nơi 1 giạ lúa là 40 lít, có nơi 42 lít hoặc dưới 40 lít. Do mỗi địa phương, dụng cụ đo lường không giống nhau nên khi người Pháp qua đô hộ vùng Nam Kỳ, họ có ra quy định các đơn vị đong gạo có như sau: 1 hộc = 26 thăng = 71,905 lít, 1 tạ thóc = 68kg, 1 vuông = 13 thăng = 35,953 lít sau lại định là 40 lít, 1 thăng = 2,766 lít, 1 hiệp = 0,1 thăng = 0,276 lít, 1 thược = 0,01 thăng = 0,0276 lít.

Hành trình 300 năm miền châu thổ Cửu Long

Trong hành trình mở cõi về đất phương Nam, người Việt đến khai phá và định cư vùng châu thổ sông Cửu Long đã gần 400 năm, nếu xem người Việt Nam đã có mặt ở vùng phương Nam vào khoảng thập niên 1630. Thập niên 1750, triều đình Huế hoàn toàn kiểm soát về mặt chính trị và lãnh thổ miền Nam. Sau khi xây dựng ban đầu các cơ sở hạ tầng hành chánh gồm các đạo, châu… vua quan triều đình nhà Nguyễn nghĩ ngay đến việc xây dựng các tuyến giao thông thủy tạo điều kiện đi lại, thoát lũ và khai thác tưới tiêu.

Con kinh đầu tiên được đào ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long là kinh nối liền giữa Vũng Gù (Tân An) đến Rạch Mỹ Tho. Kinh này do quan Nguyễn Cửu Vân cho đào năm 1705. Đến năm 1819, vua Gia Long cho nạo vét mở rộng và đặt tên là kinh Bảo Định. Di tích bia đá Kinh Bảo Định hiện còn ở Ấp Phú Kiệu, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Từ đó, công cuộc đào kinh ở miền Nam lần lượt mở rộng. Năm 1817, vị khai quốc công thần Thoại Ngọc Hầu thực hiện kinh Thoại Hà (Núi Sập, An Giang).

Trong giai đoạn 1705 - 1930, khoảng 20 con kinh đào đã được thực hiện bằng thủ công, trong đó nổi bậc nhất là công trình kinh đào Vĩnh Tế (Châu Đốc - Hà Tiên) do quan Thoại Ngọc Hầu chỉ huy kéo dài suốt 5 năm (1819 - 1824). Kinh Vĩnh Tế được xem là kinh đào đa mục tiêu đầu tiên của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vừa có chức năng an ninh, quốc phòng (ngăn chặn giặc Cao Miên, Xiêm La), vừa có chức năng thoát lũ sông Mekong về phía Biển Tây, đi lại giữa Châu Đốc - Hà Tiên, vừa có chức năng xả phèn cùng Tây Nam Kiên Giang và cung cấp nước ngọt cho người dân hai bên bờ. Việc thực hiện các dự án thủy lợi lớn tiếp tục cho đến giai đoạn 1945 - 1960 bị giới hạn lại do chiến tranh, nhưng được khởi động lại sau năm 1960 như dự án thủy nông Mỹ Phước của SOGREAH năm 1963, kế hoạch cải tạo vùng Đồng Tháp Mười của Liên đoàn Công binh Hoa Kỳ và dự án thủy nông Gò Công của Chính phủ Hàn Quốc năm 1971, dự án thủy nông Tiếp Nhựt của Nippon Koei năm 1972.

Những năm tháng ban đầu, vùng châu thổ Cửu Long này vốn là vùng “nê địa” hoang vu, thấp và trũng, rừng ngập nước và đồng cỏ hoang dại bạt ngàn, đi lại hoàn toàn bằng ghe xuồng. Thời ấy, có những nơi người dân phải sống trong cảnh "nửa năm đi trên mặt nước, sáu tháng đạp trên đất đồng khô. Tuy là nơi có đầy tôm cá, rắn rùa, ếch nhái, chim dơi và rau dại đầy đồng nhưng người Việt phải tìm nơi có cây lúa mọc được để làm lương thực, chọn nơi đó dựng nhà sinh sống. Vùng châu thổ này có giống “lúa ma” là loại lúa cho hột ăn được, tuy rằng hột nhỏ, cứng gạo, tự mọc, tự ra hạt, tự rụng hoang dã trong các cánh đồng lụt mùa nước nổi. Sau này, người dân có thêm một loại lúa mọc nhanh theo nhịp con nước, gọi là lúa nổi. Theo nhiều vụ lão nông, lúa nổi có nguồn gốc từ phía đồng lũ Cam Bốt và vùng Biển Hồ, theo mùa lũ trôi hạt về đến vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng Đồng Tháp Mười.

a3-lua.jpg
Niềm vui được mùa trên cánh đồng lúa vùng ĐBSCL.

Người dân Việt thấy giống lúa này trồng, gọi là lúa nổi, phân biệt tên gọi với lúa ma là loại lúa tự nhiên không trồng, còn lúa nổi do người trồng mặc dầu hai loại này có đặc tính thích nghi với mùa nước và phẩm chất hạt gần như nhau. Sau dần dần, người dân khai hoang các vùng đất “thảo điền” (ruộng đầy cỏ) và đem các giống lúa mùa miền Trung về trồng và thuần hóa. Dần dần, vùng châu thổ đã là nơi định cư mới của người Việt và diện tích trồng lúa mùa gia tăng dần, đặc biệt tiềm năng nông nghiệp của vùng đất mới này bắt đầu được chú ý từ đầu thế kỷ thứ 18. Đến khi người Pháp qua, trong giai đoạn 1860 - 1930, họ đem máy móc như xáng thổi và xáng cạp khai thông nhiều thủy lộ, hệ thống dẫn thủy nhập điền quan trọng giúp diện tích canh tác lúa mở rộng đến hơn 2 triệu ha.

Từ số diện tích này, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã trở thành một vùng trọng điểm xuất cảng gạo ra thế giới, lượng gạo xuất tăng nhanh. Đến cuối thế kỷ XIX, mỗi năm vùng này đã xuất cảng khoảng nửa triệu tấn gạo (1896), đến năm 1930, lượng gạo xuất cảng đã lên đến xấp xỉ 1,5 triệu tấn, đặc biệt sau khi kênh Xáng Xà No hoàn tất. Vào đầu thập niên 1960 đến 1970, Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế IRRI đã giới thiệu giống lúa IR8, sau này là các giống tiếp theo như IR36, IR42.., rồi IR64. Giống mới tới đâu thì được nhập nội trồng phổ biến ở miền Nam đã tạo nên một kỳ tích mới trong cuộc cách mạng xanh trong sản xuất lúa gạo ở Việt Nam nói chung và vùng châu thổ Cửu Long nói riêng.

Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, Chính phủ Việt Nam thống nhất đã ngay lập tức bắt đầu chiến dịch sản xuất gạo khắp nơi và bắt tay vào một số dự án cải tạo mới ở những vùng bị chiến tranh tàn phá do tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng trong nước. Mỗi tỉnh nên cung cấp càng nhiều lúa gạo càng tốt. Giai đoạn 1975 - 2005, quan điểm của chính quyền xem yếu tố nước mặn xâm nhập vào nội đồng được coi là một hạn chế đối với sản xuất nông nghiệp và lũ lụt là mối đe dọa đối với việc thâm canh cây lúa. Với quan niệm này, một số công trình thủy lợi đã được xây dựng với mục tiêu tăng sản lượng lúa mà không quan tâm đến tác động xã hội, kinh tế và môi trường.

Hệ số sử dụng đất lúa từ 1,4 lên 1,7 rồi tiếp tục đẩy lên 2,0 và có nơi lên đến trên 2,5. Diện tích lúa 3 vụ năm mở rộng, thậm chí có một số nơi ở Long An và Tiền Giang, đã có những ô ruộng canh tác 2 năm 7 vụ lúa ngắn ngày! Dù rằng năm 2013, vùng châu thổ đã tạo ra gần 25 triệu tấn lúa nhưng giá bán khá thấp so với gạo Thái Lan và một số nước khác. Cùng với đó là tác động bất lợi của biến đổi khí hậu và các vấn đề nguồn nước xuyên biên giới, thêm các dấu hiệu suy giảm chất lượng đất và môi trường do thâm canh lúa...

Lúa gạo vùng châu thổ chuyển từ lượng sang chất

Nếu đầu thế kỷ thứ 19, mỗi ha trồng lúa, chủ yếu là lúa mùa kéo dài từ 5 - 6 tháng, nông dân thu hoạch được trên dưới 1 tấn thì với những áp dụng kỹ thuật trong tưới tiêu, phân bón hóa học, cơ giới hóa đồng ruộng và các giống lúa cao sản lai tạo mới trong giai đoạn 30 năm, từ 1980 - 2020, cho đến nay, năng suất lúa bình quân đạt 5 - 6 tấn lúa/ha là điều bình thường. Tuy đây là một thành tích trong sản xuất lúa theo tiêu chí sản lượng nhưng chưa chú trọng nhiều về chất lượng nên giá gạo xuất cảng cuối thập niên 2010 chỉ dao động trong khoảng 430 - 450 USD/tấn trong khi gạo thơm Thái Lan đã dao động trong khoảng 550 - 570 USD/tấn.

Nhiều nhà khoa học ở vùng châu thổ đã nhận ra điều bất cập cho ngành lúa gạo Việt Nam nên đã đi theo hướng tìm ra những giống lúa các chất lượng thơn ngon hơn mà năng suất vẫn cao. Với nhiều năm miệt mài nghiên cứu, với giống lúa ST24 của kỹ sư Hồ Quang Cua đã được Viện Lúa Quốc tế xướng danh là gạo ngon nhất thế giới vào năm 2017 và năm 2019, còn giống ST25 là được công nhận là gạo ngon nhất thế giới và ngon thứ nhì thế giới năm 2020. Nhờ sự thay đổi chất lượng giống và công nghệ thu hoạch tốt hơn, gạo Việt Nam đã dần dần chính phục thị trường lúa gạo thế giới và mở rộng sang các nước tiêu thụ gạo với tiêu chuẩn khắt khe hơn nhưng giá bán cao hơn như Nhật, Mỹ, Châu Âu. Năm nay, lần đầu tiên giá gạo 5% và 25% tấm xuất cảng của Việt Nam đang được giao dịch lần lượt ở mức 575 USD/tấn và lên 539 USD/tấn, cao hơn hàng cùng loại của Thái Lan lần lượt là 14 USD/tấn và 27 USD/tấn.

Một khảo sát nhanh của tác giả, một số nông dân cho rằng, cần bổ sung kinh nghiệm trước đây theo trình tự tầm quan trọng “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” là thêm một ưu tiên nữa liên quan đến thị trường mua bán, giá cả lúa gạo rất cần thiết cho người trồng lúa, trở thành “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống, ngũ giá”. Với cái nhìn mới, các chương trình gia tăng chất lượng gạo của Việt Nam đã được đề xướng theo mục tiêu tạo ra những phẩm chất thơm ngon hơn, nhiều dinh dưỡng hơn và sạch hơn theo hướng hữu cơ.

Ngoài ra, việc canh tác gạo được áp dụng các giải pháp kỹ thuật như 1 phải 5 giảm, tưới khô - ướt xen kẽ và các biện pháp làm giảm phát thải khí nhà kính khác. Dù rằng mới tạo ra sự đột phá để có những cánh đồng lúa và chuỗi cung ứng gạo tham gia vào tín chỉ carbon cho mục tiêu Net Zero của Việt Nam đến năm 2050 nhưng ngay lúc này, các hoạt động của nông dân làm gia tăng giá trị lúa gạo theo vòng khép kín của giải pháp kinh tế tuần hoàn từ việc tận dụng các phụ phẩm từ rơm ra, trấu, cám của cây lúa là điều cần khuyến khích và đầu tư.

Nếu xem đất nước Việt Nam có từ thời Hùng Vương thì truyền thuyết dân gian “bánh dầy, bánh chưng” của Liêu Lang dâng lên vua Hùng là một chứng minh dân ta đã biết trồng lúa và lấy sản phẩm gạo làm ra thực phẩm từ khoảng 4.000 năm trước... Từ khi nước ta chính thức giành được độc lập, hình ảnh cây lúa luôn hiện diện trên quốc huy, đồng tiền cho thấy chính thể đã thấy vai trò của cây lúa trong văn hóa dân tộc.

Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Luận về cây lúa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO