Doanh nghiệp hiểu rõ hơn về hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải
(TN&MT) - Trong vòng 1 năm qua, 6 khóa đào tạo về Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) đã được tổ chức Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với hơn 650 đại biểu tham gia. Hơn một nửa trong số đó là đại diện các doanh nghiệp có phát thải khí nhà kính lớn - nhóm chịu tác động trực tiếp khi hệ thống ETS triển khai trong tương lai.
Ngày 6/3, tại Hà Nội, Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức Cuộc họp tổng kết Hỗ trợ kỹ thuật: “Đào tạo và mô phỏng Hệ thống Trao đổi hạn ngạch phát thải tại Việt Nam”. Hoạt động hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam, góp phần thực hiện các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam theo Thỏa thuận Paris.

Để thiết lập và vận hành thị trường các-bon trong nước, Luật Bảo vệ môi trường đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon tại Điều 139. Theo đó, các cơ sở phát thải khí nhà kính lớn sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải và có quyền trao đổi, mua bán hạn ngạch này trên thị trường các-bon tuân thủ trong nước. Nghị định 06/2022/NĐ-CP đã nêu rõ lộ trình triển khai thị trường các-bon tuân thủ trong nước, trong đó, sẽ thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon từ năm 2025.
Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: “Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng, hoàn thiện dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP. Trong đó, xác định rõ các đối tượng được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính là các nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất sắt thép, cơ sở sản xuất xi măng thuộc danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành, cập nhật hai năm một lần.
Việc hướng dẫn sử dụng công cụ mô phỏng hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính là một trong những hoạt động hỗ trợ trong khuôn khổ Bản ghi nhớ hợp tác giữa Cục Biến đổi khí hậu và Văn phòng Dịch vụ Dự án của Liên hợp quốc (UNOPS). Qua đó, tạo điều kiện cho các bên liên quan hiểu thêm về chức năng, quy trình vận hành, quản lý, giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ các-bon trên sàn giao dịch”.

Từ tháng 2-12/2024, đã có 6 khóa tập huấn được tổ chức tại thành phố Hà nội và TP Hồ Chí Minh. Hơn 650 học viên là đại biểu đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau,bao gồm: các nhà hoạch định chính sách, cơ sở phát thải khí nhà kính và đại diện từ các viện nghiên cứu, trường đại học, ngân hàng, tổ chức tài chính và cơ quan truyền thông. Giảng viên là các chuyên gia quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực giảm nhẹ biến đổi khí hậu và định giá các-bon.
Sau đào tạo, tỷ lệ đại biểu nhận thấy ETS là "Không thể thiếu" trong việc đạt được mục tiêu Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam là 46,94%, và 73,62% công nhận ETS rất hiệu quả về chi phí.
99% đại biểu đánh giá khóa đào tạo là "Rất hữu ích", "Hữu ích" và cho biết sẽ giới thiệu đồng nghiệp tham gia khóa tiếp theo. Các phiên thảo luận tương tác và thực hành mô phỏng CarbonSim giúp họ nâng cao hiểu biết kỹ thuật về các nguyên tắc thiết kế ETS, tính hiệu quả chi phí, định giá các-bon, cơ chế giao dịch, tác động chính sách và ra quyết định chiến lược.
Theo bà Đặng Hồng Hạnh, Trưởng nhóm/Chuyên gia về chính sách biến đổi khí hậu, Giám đốc Điều hành Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC), Chương trình mang đến mô hình học tập giàu tính tương tác, thực hành thông qua công cụ mô phỏng CarbonSim. Các diễn giả quốc tế đã cập nhật những diễn biến mới nhất về ETS toàn cầu và thị trường các-bon, kinh nghiệm từ hệ thống ETS một số quốc gia, khu vực trên thế giới. Ngoài ra, đại diện từ Cục Biến đổi khí hậu cũng cung cấp thông tin cập nhật về sự phát triển của thị trường các-bon trong nước và các nỗ lực giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Từ đó, giúp học viên có góc nhìn toàn diện về cả thách thức và cơ hội từ thị trường các-bon ở cấp độ quốc tế và quốc gia.

Dựa trên phân tích chuyên sâu kết quả của các khóa đào tạo, khảo sát và thực tập mô phỏng, chương trình đã đưa ra các bài học và khuyến nghị chính về việc thiết kế và thực hiện ETS tại Việt Nam.
Các khuyến nghị chính sách đề xuất cần có mục tiêu rõ ràng phù hợp với các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính quốc gia, phạm vi áp dụng ETS và độ bao phủ ngành với các tiêu chí minh bạch, cũng như các phương pháp luận chặt chẽ để thiết lập hạn mức phát thải và phân bổ hạn ngạch phát thải. Các chuyên gia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá và điều chỉnh thiết kế ETS thường xuyên, cũng như giám sát diễn biến quốc tế, chẳng hạn như Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) của EU, để đảm bảo rằng ETS của Việt Nam vẫn duy trì tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh toàn cầu. Các khóa đào tạo cũng cho thấy nhu cầu cao đối với các hoạt động nâng cao năng lực, và cần triển khai hoạt động đào tạo chuyên sâu hơn.

Ông John Robert Cotton - Quản lý Chương trình cấp cao của ETP cho biết, ETP đang tập trung vào Indonesia, Philippines và Việt Nam, là những quốc gia trong khu vực có nhu cầu năng lượng cao, có số lượng lớn các dự án năng lượng dựa trên nhiên liệu hóa thạch, có tiềm năng đáng kể và hiệu quả về chi phí đối với các dự án năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng. Thành công từ hoạt động triển khai đào tạo về ETS là bài học kinh nghiệm tốt cho các quốc gia ASEAN và cũng cho thấy nỗ lực lớn của Việt Nam để đạt được mục tiêu theo NDC và cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam cập nhật lên Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) năm 2022, Việt Nam đã đặt mục tiêu giảm 15,8% lượng phát thải KNK vào năm 2030 bằng nguồn lực trong nước và giảm 43,5% với sự hỗ trợ của quốc tế so với kịch bản phát triển thông thường (BAU).
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc xây dựng một ETS hiệu quả đóng vai trò then chốt trong việc đạt được mục tiêu giảm lượng phát thải khí nhà kính với chi phí tốt. Theo các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, áp dụng các công cụ định giá các-bon như ETS, thuế các-bon và cơ chế tín chỉ các-bon có thể giúp giảm 30% chi phí giảm phát thải để đạt mục tiêu NDC. Bằng cách áp hạn mức về tổng lượng phát thải và cho phép các doanh nghiệp mua bán hạn ngạch phát thải, ETS tạo ra các động lực kinh tế giúp các doanh nghiệp tìm biện pháp giảm lượng phát thải KNK của họ một cách hiệu quả và tối ưu chi phí.