Kinh tế

Cơ chế giá LNG nhập khẩu vẫn chưa được xác định

Sông Thương 13/11/2023 - 19:49

Là doanh nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay đủ điều kiện xuất nhập khẩu và kinh doanh LNG, thế nhưng, Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS) đang đứng trước những thách thức lớn về thời gian và vấn đề cơ chế chính sách.

Thông tin này được ông Huỳnh Quang Hải - Phó Tổng Giám đốc PV GAS phát biểu tại Tọa đàm về tiêu thụ thị trường LNG do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) và PV GAS tổ chức.

hinh-2_-toan-cnh-bui-ta-dam.jpg
Toàn cảnh Tọa đàm

Phát biểu tại Tọa đàm, ông Huỳnh Quang Hải - Phó Tổng Giám đốc PV GAS cho biết, việc phát triển khí LNG nhập khẩu đang gặp nhiều vướng mắc do chưa xác định được cấp có thẩm quyền sẽ phê duyệt cơ chế chính sách với khí LNG khi việc nhập khẩu này gắn liền với cước phí vận chuyển LNG từ nước ngoài về Việt Nam, cước phí tồn chứa LNG trong hệ thống bồn chứa ở điều kiện nhiệt độ -164 độ C.

Bên cạnh đó, theo thông lệ quốc tế, việc nhập khẩu khí LNG được thực hiện thông qua hợp đồng định hạn có cam kết khối lượng gắn với thời gian nhập hàng cụ thể. “Nếu tiêu thụ LNG thấp hơn lượng LNG nhập khẩu về thì doanh nghiệp nhập khẩu LNG như PV GAS sẽ không thể tiếp nhận các chuyến tàu khác do không đủ kho tồn chứa. Khi đó, doanh nghiệp nhập khẩu LNG sẽ bị phạt hợp đồng. Vì vậy, việc nhập khẩu LNG đòi hỏi phải có cơ chế bao tiêu LNG, ràng buộc trách nhiệm giữa các hộ tiêu thụ với bên nhập khẩu LNG như PV GAS. Ngoài ra, đến thời điểm này, cơ chế giá LNG nhập khẩu vẫn chưa được xác định rõ, đây chính là khó khăn rất lớn với doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu LNG như PV GAS”, ông Huỳnh Quang Hải cho biết.

Thực tế các nhà máy điện ở khu vực miền Đông Nam Bộ chủ yếu tập trung ở Bà Rịa - Vũng Tàu với tổng công suất điện khí khoảng 10GW và sử dụng hầu hết khí nội địa để phát điện (trừ Nhà máy Nhơn Trạch 3&4 đang xây dựng). Nhu cầu khí nội địa cho sản xuất điện trong nhiều năm bình quân ở mức 5 - 6 tỷ m3 khí/năm. Tuy nhiên, hiện lượng khí nội địa cấp cho các nhà máy điện chỉ đạt 3 tỷ m3/năm nên khi hệ thống huy động công suất điện khí cao, việc cấp khí cho các hộ tiêu thụ khí khác phải tạm dừng lại ngay cả khi Nhà máy điện Nhơn Trạch 3&4 chưa vào hoạt động.

Theo Nghị quyết số 55/NQ-BCT của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đã đặt mục tiêu phát triển nhanh nhiệt điện khí LNG và ưu tiên phát triển hạ tầng nhập khẩu, phân phối LNG. Mục tiêu đặt ra là nhập khẩu 8 tỷ m3 LNG/năm vào năm 2030 và khoảng 15 tỷ m3 LNG/năm vào năm 2045.

Trong khi đó, những năm gần đây, sản lượng khai thác khí nội địa đang sụt giảm khoảng 10%/năm do các mỏ khí đã được khai thác trong nhiều năm, dẫn tới khí nội địa cho phát điện được dự báo sẽ thiếu trong thời gian tới đây. Vì vậy, việc nhập khẩu LNG để bù đắp cho lượng khí nội địa thiếu hụt được coi là giải pháp thay thế tất yếu trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.

trai-tim-cua-chuoi-du-an.jpg
Kho LNG 1 triệu tấn Thị Vải

Điều đáng nói, các nhà máy điện ở khu vực Đông Nam Bộ đều được thiết kế để sử dụng khí nội địa, trong khi hiện chỉ có khí LNG là tương thích cao nhất với khí nội địa, ngoài ra, không có sản phẩm khí nào khác có thể thay thế. Việc PV GAS quyết định đầu tư giai đoạn 2 Kho LNG Thị Vải để nâng công suất lên 3 triệu tấn khí LNG (tương ứng khoảng 4,2 tỷ m3) nhằm đáp ứng một phần nhu cầu khí cho sản xuất điện.

Phó Tổng Giám đốc Huỳnh Quang Hải cũng cho biết, để đáp ứng nhu cầu khí LNG cho sản xuất điện sạch, PV GAS đã đưa vào vận hành kho LNG 1 triệu tấn Thị Vải (giai đoạn 1) tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Hiện PV GAS đang chuẩn bị để triển khai giai đoạn 2 nhằm nâng công suất kho LNG Thị Vải lên 3 triệu tấn, nhằm đáp ứng nhu cầu khí LNG cho sản xuất điện sạch theo quy hoạch Phát triển điện VIII đã được thông qua.

Tuy nhiên, với thực tế là nghiên cứu khả thi (Fs) kho LNG Thị Vải giai đoạn 1 có từ năm 2005 nhưng phải đến năm 2019, dự án mới được khởi công và năm 2023 mới đưa vào vận hành, việc đầu tư kho LNG Thị Vải giai đoạn 2 và một số dự án kho LNG khác cần sớm được tháo gỡ vướng mắc để PV GAS có thể thu xếp tài chính triển khai dự án trong bối cảnh tình trạng thiếu khí nội địa cho sản xuất điện đang hiện hữu.

Mặt khác, theo Quy hoạch điện VIII, sau năm 2035 sẽ không phát triển nguồn LNG mới, do đó, chỉ còn hơn 10 năm để triển khai các dự án về LNG, trong khi đó cơ chế chính sách hiện còn chưa hoàn thiện để cho phép doanh nghiệp/chủ đầu tư chủ động triển khai các dự án điện khí LNG. Vì vậy, đối với Quy hoạch điện VIII, đề xuất Chính phủ/Bộ Công Thương cần ban hành kế hoạch thực hiện Quy hoạch một cách khả thi để các địa phương, nhà đầu tư có căn cứ triển khai. Bên cạnh đó, một số quy hoạch ngành, địa phương chưa đồng bộ với Quy hoạch Điện VIII dẫn đến việc tìm kiếm địa điểm xây dựng Kho LNG gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, cơ chế chính sách liên quan đến LNG như cơ chế bao tiêu, chuyển ngang (pass through), các quy định liên quan đến giá khí, cước phí chưa rõ ràng về thẩm quyền phê duyệt cũng như cách thức xác định… sẽ gây khó khăn cho việc xác định giá phát điện đầu ra cũng như đàm phán các thỏa thuận thương mại giữa các khâu.

Với vai trò và trách nhiệm của mình, PV GAS đã và đang tham gia tích cực cùng với các bộ, ban, ngành liên quan trong việc xây dựng các cơ chế chính sách. Chúng tôi cũng cung cấp rất nhiều thông tin, tài liệu về cơ chế chính sách mà các quốc gia trên thế giới đang áp dụng cho LNG. Hy vọng trong thời gian ngắn sắp tới, chúng ta sẽ xây dựng được khung pháp lý bao gồm cả về kỹ thuật cũng như cơ chế chính sách để thúc đẩy ngành công nghiệp LNG phát triển.

Ông Phạm Văn Phong - Tổng Giám đốc PV GAS

Đại diện lãnh đạo PV GAS cho hay, với mục tiêu góp phần đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng của quốc gia trên lộ trình chuyển dịch năng lượng xanh của Chính phủ, PV GAS mong muốn Nhà nước chấp thuận chủ trương bổ sung LNG là nguồn khí thay thế khi nguồn khí nội địa đang suy giảm. Tương tự như ở các quốc gia phát triển, cần có cơ chế chuyển ngang bao tiêu khối lượng khí và giá khí LNG tái hóa cùng với các quy định cụ thể về cấp có thẩm quyền phê duyệt nguyên tắc xác định giá LNG nhập khẩu, cước phí vận chuyển khí, tồn trữ, phân phối LNG,... để có cơ sở ký kết hợp đồng mua bán khí LNG tái hóa với các nhà máy điện.

Với các chính sách về hạ tầng, để thúc đẩy phát triển bền vững, hệ thống hạ tầng điện khí LNG của Việt Nam cần được phát triển theo mô hình kho LNG trung tâm (LNG Hub). Theo đó, các doanh nghiệp Nhà nước hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam), PV GAS có nhiệm vụ phát triển hạ tầng LNG nhằm tận dụng năng lực tài chính, kinh nghiệm, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng hiện có trong lĩnh vực công nghiệp khí để phát triển hệ thống hạ tầng nhập khẩu và phân phối LNG của quốc gia.

b2.-he-thong-duong-ong-ve-kho.jpg
Hệ thống đường ống khí về kho LNG Thị Vải

Đối với hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật ngành LNG, PV GAS đề xuất các bộ, ngành tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy chuẩn/tiêu chuẩn về lĩnh vực LNG nhằm đảm bảo thống nhất mặt bằng kỹ thuật đối với các chuỗi LNG.

Đẩy mạnh sử dụng LNG là cơ sở để chuyển đổi năng lượng sạch, giải bài toán thiếu điện, bảo vệ môi trường, đặc biệt góp phần thúc đẩy hiện thực hóa các cam kết của Việt Nam tại COP26. Tuy nhiên, kể từ khi nhập chuyến tàu LNG về Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại, PV GAS đã và đang gặp nhiều khó khăn vướng mắc do cơ chế chính sách, khung pháp lý của LNG đang trong quá trình nghiên cứu, soạn thảo. Thiết nghĩ, cần sớm ban hành những cơ chế chính sách cho loại hình năng lượng này để đưa LNG ra thị trường phục vụ cho đời sống và sản xuất, thúc đẩy ngành công nghiệp sử dụng LNG tại Việt Nam, hiện thực hóa mục tiêu theo Quy hoạch Điện VIII, phát triển LNG vì mục tiêu an ninh năng lượng và chuyển đổi năng lượng của quốc gia.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Cơ chế giá LNG nhập khẩu vẫn chưa được xác định
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO