Các đại biểu tham gia Tọa đàm trực tuyến |
Tọa đàm với sự tham gia của các nhà quản lý, chuyên gia để phân tích cụ thể về các mô hình chuyển đổi, những giải pháp căn cơ phát triển vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH, nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế của người dân.
Dựa vào tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, là chủ thể để phát triển bền vững
Giáo sư Võ Tòng Xuân cho biết, chủ trương thuận thiên với Nghị quyết 120 của Chính phủ ra đời rất đúng lúc, nhất là khi biến đổi khí hậu ảnh hưởng rất mạnh mẽ không chỉ cho ĐBSCL của mình mà cho cả thế giới. Về thiên nhiên hiện nay, chúng ta có ít nước trong mùa khô, mùa mưa, không giữ được nước ngọt, thành ra cách sử dụng nước thông minh là chúng ta thuận thiên.
Bốn năm vừa qua, sau khi có Nghị quyết 120, các tỉnh cũng như các Bộ, ngành có chuẩn bị chuyển sang giai đoạn thuận theo thiên nhiên để phát triển ĐBSCL, đi tới kinh tế nông nghiệp, nhất là vùng ven biển, trước kia người dân trồng lúa xen thêm vụ tôm ở vùng mặn. Khi có Nghị quyết 120, các tỉnh mạnh dạn cùng với nông dân phát triển cây kỹ thuật, hệ thống canh tác. Ruộng lúa mùa mưa rất nhiều nước, chuyển sang mùa khô nuôi tôm có lợi. Nhưng ngoài vùng mặn này, trong vùng ngọt, vùng lũ các tỉnh còn đang phân vân chuyển như nào, bởi 1 hệ thống trước đây giờ chuyển lại phải đầu tư.
Theo GS Võ Tòng Xuân, trước đây, người dân tự phát làm, có những chỗ trên cánh đồng lúa rất lớn bỗng nhiên có vườn na (mãng cầu), thỉnh thoảng có ruộng xoài 1, 2 ha; có chỗ người ta không trồng lúa mà nuôi cá, mạnh ai nấy làm rất tự phát.
Giáo sư Võ Tòng Xuân |
GS Võ Tòng Xuân mong muốn, tới đây, khi Chính phủ triển khai quy hoạch cụ thể hơn, để đây chắc chắn là thuận thiên. Có những nơi mùa mưa chứa nước nhiều quá nhưng mùa khô lại không có, thay vì 3 vụ lúa vừa tốn kém nước ngọt hiếm hoi, mùa khô có thể chuyển sang trồng xoài. Những cách làm đó, tới đây, các ngành cũng như nông dân ngồi lại cùng với doanh nghiệp có đầu ra lớn bàn bạc để Nghị quyết thành công hơn.
Tại COP 26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nêu quan điểm “Mọi hành động ứng phó với BĐKH phải dựa vào tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, là chủ thể để phát triển bền vững”. Theo Tổng Cục trưởng Tổng Cục Phòng, chống thiên tai, Bộ NN&PTNT Trần Quang Hoài, hiện nay, các cơ quan chức năng đã triển khai quyết liệt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề "thuận thiên".
Trước đây, như Giáo sư Võ Tòng Xuân đã nói, chúng ta tập trung cao cho cây lúa và bằng mọi cách phải có nước ngọt, và chúng ta đã chi phí rất tốn kém. Nhưng bây giờ, Bộ NN&PTNT đã chia thành 3 vùng để quản lý.
Cụ thể, vùng nước ngọt gồm các tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An. Vùng giữa là vùng nằm giữa vùng ngọt và vùng ven biển. Vùng ven biển có phương pháp sinh kế cho bà con theo quy hoạch của Bộ NN&PTNT. Ví dụ như mô hình tôm - lúa, tập trung cao cho việc nuôi tôm, phát triển nguồn lợi thủy sản.
Tổng Cục trưởng Tổng cục Phòng chống thiên tai Trần Quang Hoài |
Đối với phòng chống thiên tai, lấy con người làm trọng tâm và phải thuận thiên. Chúng ta không thể bất kỳ chỗ nào cũng xây dựng công trình, bởi có những khu vực không thể xây dựng công trình được. Có những khu vực có thể kết hợp vừa xây dựng công trình, vừa phát triển kinh tế, như trồng rừng ngập mặn ven biển. Tại Cà Mau, chúng ta thấy là hiện không còn vị trí để trồng rừng, mà chỉ phát triển thêm những gì hiện có.
Đối với xây dựng công trình, các nhà khoa học trong nước và quốc tế cũng như Bộ NN&PTNT xác định xây dựng công trình phải phù hợp thực tiễn của khu vực ĐBSCL, phù hợp với biến đổi khí hậu. Chính phủ đã có chương trình khoa học công nghệ chống thiên tai, trong đó, có vấn đề về công trình phòng chống thiên tai cho ĐBSCL.
Về phòng chống thiên tai cho khu vực, chúng tôi tập trung vào yếu tố con người là quan trọng nhất. Trong những năm gần đây, lũ ở một số khu vực không kém gì những trận lũ năm 2000 khi chúng ta thiệt hại gần 500 người dân. Nhưng năm 2016, không có người dân nào bị thiệt mạng vì chúng ta thực hiện rất quyết liệt việc nâng cao năng lực cộng đồng, hướng dẫn người dân bảo vệ an toàn tính mạng và sức khỏe bằng những chương trình như cấp nước sạch, đảm bảo sinh kế cho bà con.
Những khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai chúng ta cũng có các chương trình đảm bảo thu nhập, phát triển bền vững cho người dân trong bối cảnh có thiên tai.
Hiện nay, các địa phương đang tích cực trong việc gắn bảo đảm an toàn trong thiên tai với xây dựng nông thôn mới vì đây là những nội dung, những điểm sáng mà rất nhiều địa phương đã làm rất tốt như Đồng Tháp, Cà Mau đều là những vùng bị ảnh hưởng nặng nề của của thiên tai nhưng đời sống của người dân đều đang được nâng lên.
Kết nối vùng thu hút nhiều nguồn lực phát triển
Trao đổi về việc kết nối liên vùng thông qua kết nối kinh tế, kết nối hạ tầng nội vùng ĐBSCL và với TP.HCM. Và việc kết nối đó đã mang lại hiệu quả như thế nào cho sự phát triển của ĐBSCL, GS.TS Trần Thục - Phó Chủ tịch, Hội đồng Tư vấn của Ủy ban Quốc gia về BĐKH cho biết, hiện nay, ĐBSCL có ranh giới vị trí, và một hoạt động ở tỉnh này hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến tỉnh khác, có thể là ảnh hưởng tốt, có thể là ảnh hưởng xấu. Cho nên, theo GS.TS Trần Thục lãnh đạo các địa phương biết rất rõ về địa phương mình, biết phải làm gì, cần làm gì, nhưng lại không có cái nhìn thổng thể để phối hợp với các địa phương khác như thế nào.
GS.TS Trần Thục - Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn của Ủy ban Quốc gia về BĐKH |
“Nghị quyết 120 tạo tiền đề cho liên kết vùng và Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thí điểm liên vùng đối với ĐBSCL. Tôi nghĩ đây là một bước tiến quan trọng để các địa phương phối hợp trong những ô của từng vùng. Như trong phóng sự chúng ta thấy, cần phải có quy hoạch tích hợp, quy hoạch toàn bộ ĐBSCL, từ đó, các tỉnh, thành phố có quyền tích hợp cho địa phương mình và các vùng liên kết giữa các tỉnh.” - GS.TS Trần Thục chia sẻ.
Trao đổi thêm về vấn đề này, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) Nguyễn Đình Thọ cho biết, kết nối vùng thông qua kết nối vùng ĐBSCL hiện nay, hạ tầng kết nối giao thông đang là yếu nhất. Việc kết nối khu vực TP.HCM có ý nghĩa rất quan trọng. ĐBSCL cũng có lợi thế với 6 tuyến chính, đặc biệt là cảng biển có thể kết nối cự ly ngắn thông qua các cảng gom hàng như Cái Mép, Thị Vải…
Trong giai đoạn 2016 - 2020 đầu tư 198.000 tỷ đồng kết nối giao thông, với các tuyến Cần Thơ - Kiên Giang, cao tốc Trung Lương - Cần Thơ - Mỹ Thuận…
Giai đoạn 2020 - 2025, Chính phủ đã quyết định đầu tư 266.000 tỷ trung hạn và hỗ trợ Bộ GTVT 198.000 tỷ để thực hiện kết nối giao thông.
“Về phía Bộ TN&MT, chúng tôi cũng xác định nghiên cứu định hình không gian hạ tầng để xây dựng khu công nghiệp và đô thị thích ứng với BĐKH và hệ sinh thái phù hợp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các nhiệm vụ này. Nếu thực hiện tốt việc này, tôi nghĩ hiệu quả đầu tư công sẽ rất tốt và có thể thu hút được nhiều nguồn lực khác, bao gồm cả các nguồn lực quốc tế.” - Ông Nguyễn Đình Thọ khẳng định.
Xây dựng chính sách để khai thác tiềm năng năng lượng tái tạo dồi dào
Vừa qua, tại COP26, các sáng kiến về năng lượng sạch, chuyển dịch năng lượng đã nhận được sự quan tâm rất lớn. Chuyển dịch năng lượng là yếu tố không thể thiếu để đạt được mục tiêu phát triển bền vững và thích ứng với BĐKH của Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng.
ĐBSCL được đánh giá có lợi thế rất lớn để thực hiện mục tiêu này với tiềm năng năng lượng tái tạo dồi dào. Để tận dụng hết được những lợi thế, tiềm năng này, ông Nguyễn Đình Thọ cho biết: ĐBSCL là khu vực có lợi thế về năng lượng tái tạo, 11/13 tỉnh của ĐBSCL có lượng bức xạ mặt trời đạt mức 1387/1534 kWh/năm và thời gian khu vực này có nắng 2.200 đến 2.500 giờ/năm.
Vì vậy, đây là khu vực có thể tận dụng tiềm năng phát triển về năng lượng mặt trời. Về năng lượng gió, khu vực này cũng có tiềm năng rất lớn dọc khu vực ven biển, tới 1.200 - 1.500 mW. Ngoài ra, ĐBSCL cũng là khu vực tận dụng được nguồn năng lượng sinh khối với nguồn sinh phẩm nông nghiệp lên tới 23 triệu tấn/năm.
Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Đình Thọ |
Theo ông Thọ, đây là khu vực trọng điểm để Việt Nam có thể đạt được kết quả như Thủ tướng cam kết tại COP26. Đặc biệt, thông qua đầu tư công, dẫn đắt đầu tư tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo và truyền tải điện. Đồng thời, xây dựng quy hoạch để khu vực này có thể truyền tải điện cung cấp cho vùng ĐBSCL cũng như khu vực trọng điểm kinh tế phía Nam trong thời gian tới.
“Chúng tôi cũng kiến nghị Bộ Công Thương hoàn thành quy hoạch điện VIII giúp cho khu vực có thể thực hiện các dự án năng lượng tái tạo bởi năm nay là năm bản lề để các tỉnh khu vực ĐBSCL phát triển quy hoạch tỉnh cho đến năm 2030 tầm nhìn 2045.” - Ông Thọ cho biết.
Tán thành quan điểm của ông Nguyễn Đình Thọ, GS.TS Trần Thục cho rằng: Câu chuyện Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tuyên bố phát thải ròng của Việt Nam sẽ bằng 0 vào năm 2050, đồng nghĩa với việc thời gian tới chúng ta phải chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ.
Bước sang 2022, để đạt mục tiêu phát thải ròng còn bằng 0 vào năm 2050, cần có sự tuyên truyền rộng rãi tạo sự đồng thuận của người dân. Cần tăng cường năng lực cho thanh niên thực hiện số hóa, nâng cao quyền cho phụ nữ trong phát triển quản lý năng lượng tái tạo..
Theo GS.TS Trần Thục, khu vực ĐBSCL có tiềm năng bức xạ mặt trời lớn, nhưng quỹ đất không còn nhiều, do đó, nếu chỉ làm năng lượng mặt trời thì ít hiệu quả kinh tế. Cách làm hiệu quả là cần kết hợp năng lượng mặt trời với thuỷ sản, nông nghiệp. Tiềm năng năng lượng gió ở ngoài khơi khu vục này lớn, có thể bước đầu chưa hiệu quả kinh tế, nhưng chúng ta có thể kết hợp sản xuất năng lượng Nitro (năng lượng Nitro rất quan trọng trong tương lai) với phát triển điện gió.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh truyền thông để người người dân cũng như các cấp chính quyền khu vực ĐBSCL hiểu được lợi thế cũng như những việc phải làm.