(TN&MT) - Khoảng hơn 20 năm trước, câu chuyện thiên nhiên Việt Nam bị tàn phá đã bắt đầu trở nên đặc biệt sôi sục trong nhóm nhà báo trẻ chúng tôi.
Khoảng hơn 20 năm trước, câu chuyện thiên nhiên Việt Nam bị tàn phá đã bắt đầu trở nên đặc biệt sôi sục trong nhóm nhà báo trẻ chúng tôi. Ít lâu sau, “Diễn đàn các Nhà báo Môi trường” ra đời, với sự lãnh đạo, truyền cảm hứng của các nhà báo kỳ cựu như Phạm Huy Hoàn, Huỳnh Dũng Nhân, Hoàng Quốc Dũng; tôi - Đỗ Doãn Hoàng: bấy giờ đang làm Báo An ninh Thế giới, là người “đồng sáng lập”. Chúng tôi làm nhiều việc, tôi lái xe máy đi từ Bắc tới Nam, lên rừng xuống biển theo đúng nghĩa “chân đi nát đá, dạ còn ngẩn ngơ”. Mũi đi điều tra DƯỚI NƯỚC; mũi ở TRÊN CẠN; nhóm khác điều tra về việc xả thải đầu độc BẦU KHÔNG KHÍ. Chúng tôi gọi là “tác chiến” tận tâm với đủ… thủy lục không quân.
Tôi kể dài dòng như vậy để nói về cái gì đó giống như mối duyên trời. Để từ bấy, tôi phải lòng thiên nhiên hoang dã, với những chuyến “đi lạc” để đời. Những chuyến đi, có khi là dốc cạn sức mình, dốc cạn đến đồng bạc lẻ cuối cùng và cũng như sẵn sàng đánh đổi (ít nhiều hoặc quá nhiều) sự an nguy tính mạng của mình và gia đình, đồng nghiệp; để có được và công bố được các thông tin điều tra hữu ích nhất, vì cộng đồng. Nhiều người đi lạc vào miền hoang dã và không bao giờ tìm được, cũng như không muốn tìm được… lối ra nữa.
Các loài đẻ vô tội vạ và cực kỳ dễ thích nghi ấy đã biến đi đằng nào?
Hành trình khám phá Úc châu, Bắc Âu, rồi châu Phi diệu kỳ, muôn loài sum vầy như bước ra từ thuở hồng hoang - chúng làm tôi không thôi hạnh phúc. Rồi không thôi nghĩ về những cánh rừng, những bờ sông, những thành phố nhiều cây xanh nhưng hầu như không có tiếng chim ca. Chẳng có bóng chim, sóc, muông thú rộn ràng. Còi xe bóp tùy hứng liên hồi kỳ trận (ở hầu khắp các quốc gia, khi cực kỳ công phẫn và hiểm nguy, họ mới bấm còi, như dân gian nói, bóp còi là muốn uýnh nhau rồi đó).
Thiên nhiên hoang dã đã lui về quy ẩn, tiệt bóng, không tiếng kêu, chẳng hót ca. Sự im lặng không tiếng chim, không thấy bóng chim thú và cả… côn trùng, thật đáng xấu hổ. Chúng ta đã quen với điều đó suốt mấy thập niên qua, chứ người nước ngoài, họ thường ngạc nhiên, ồ, sao lại “no bird” (không một tiếng chim). Con sóc, con cáo, ở nhiều quốc gia tôi đã đi qua, họ phải dùng thuốc độc diệt bớt để kiểm soát số lượng của chúng, và họ treo biển, khu rừng này chúng tôi đang nhử thức ăn để đầu độc con cáo. Các loài sinh sản vô tội vạ và cực kỳ dễ thích nghi kiểu đó, ở ta, chúng đã biến đi đằng nào?
Gần đây, khi ở Úc, sống với các loài hoang dã tràn ngập, thân thiện, thơ mộng ngày nọ qua ngày kia; tôi có vô tình đọc lại tác phẩm của nhà văn Sơn Nam, ông viết về những ngày hàng vạn con bồ nông (có lẽ là loài chim to lớn bậc nhất đến nay vẫn còn lác đác vài cá thể ở Việt Nam) bị người ta rình, đập chết trong đêm. Đấy là hồi thuộc Pháp. Còn bây giờ chúng ta đối xử với muông thú ra sao? Xin thưa, súng săn có kính ngắm và chiếu la-ze siêu chuẩn (nhập lậu từ nước láng giềng về), ship đến tận nhà “bao tốt, bao an toàn”. Bẫy, lưới mờ rẻ tới mức, một bát phở đổi được dăm bảy chục mét. Giăng đâu, chim chóc tử nạn bay vào niêu tới đó. Bất kỳ loài chim thú nào, nếu bạn có ý định bắt, trên mạng xã hội, đều có sẵn video, âm thanh giả tiếng chim trống, chim mái, chim mùa bắt cặp đang “sung”… để dụ dỗ chúng về. Thiếu đèn pin, bẫy, lưới, súng, thuốc độc (cho vào thức ăn để giết chim thú), đều có sẵn sau một cái di chuột trên điện thoại thông minh. Trước thảm họa công nghệ kỹ thuật bị lợi dụng làm việc ác với môi trường sống ấy: nếu không nâng cao thực thi luật pháp, chuỗi sinh thái sẽ tiếp tục bị đứt gẫy, phá hủy đến cùng cực. Và chúng ta cùng lãnh đủ. Chắc chắn, đại dịch toàn cầu Covid-19 vừa qua chỉ là một ví dụ mở màn.
Sự quyến rũ không gì lý giải nổi
Sự quyến rũ của thiên nhiên hoang dã, trong mắt tôi, là một cái gì không lý giải nổi. Cuộc sống thơ mộng của những cư dân sau nách núi, vẻ đẹp ban sơ và bản sắc tộc người bí ẩn, trên khắp thế giới, luôn là đích đến của mọi khám phá đáng giá nhất. Chú tê giác không có đối thủ ngoài tự nhiên, nhưng ai đã sai bảo chúng, để hễ thấy đám lửa cháy là “chú lính chì dũng cảm của rừng” nhất thiết phải xông vào dập tắt? Vì sao một chú chim nhỏ ở Úc lại nghĩ ra trò: hễ có ai đến gần tổ, thấy nguy hiểm là chú ta tỏ ra bị thương vật vã, quay quắt (như sắp chết), để thu hút “kẻ thủ ác” xông ra ăn thịt hay đánh đuổi mình. Mục đích của chú ta là dụ đối tượng theo mình, để đối tượng nguy hiểm đi xa cái tổ có đàn con hay các quả trứng non bấy của chúng.
Ở Papua, Indonesia, chúng tôi gặp con chim “kiến trúc sư”, nó có thể dành nhiều năm xây một cái tổ kỳ dị, đẹp nao lòng. Có lối vào cong vút gồm vô số cọng tre, trúc, cỏ tế, cây dại khô. Nó “thẩm mĩ” như có một kiến trúc sư đại tài vừa vẽ vừa tỉ mỉ giám sát thi công vậy. Vào tòa “lâu đài” thì lớp lang, có cửa chính, cửa sổ, có khu trưng bày xanh đỏ tím vàng, có khi mảnh ni lông, cái nút chai (lần đầu tiên nhìn “rác công nghiệp” này trên rêu xanh mà tôi thấy nao lòng vì đẹp), thêm ít lá khô vẫn thắm tình xanh đỏ. Tầng dưới khum cong, óng ả, tầng trên tơ tướp vểnh ra các bên như thành luỹ, tháp canh, và cả lỗ châu mai. Mỏm đất nó đặt pháo đài tình yêu để dụ chim mái cũng phải có cây mục, có rêu xanh, và ở nơi cao cao có cái “view triệu đô”. Nếu không tới đó, tận mắt thấy chú chim ấy xây “lâu đài”; mà chỉ đọc ai đó viết, kể hay ai đó chụp bức ảnh “tổ chim” kiểu đó thì: tôi - nói như cụ Descarte (Đề Cát Tơ) “tôi nghi ngờ do đó tôi tư duy/ tôi tư duy, do đó tôi tồn tại” - chắc chắn sẽ coi chuyện trên là bịa tạc, là nói quá lên.
Chưa hết, trong khi các loài chim thiên đường lạ và đẹp bậc nhất thế giới, khiến các dự án chụp ảnh quay phim có thể tốn nhiều triệu đô la của các chuyên gia Mỹ trong đằng đẵng 8 năm (nếu nhìn thấy chim thiên đường múa gọi bạn tình, bất kỳ ai cũng phải sửng sốt và không hiểu nổi tại sao trời đất lại sinh ra cái sự lạ đến thế)... Thì chim “kiến trúc sư” chả đẹp tí nào, không có màu sắc nào ngoài nâu nâu trầm trầm; không đuôi dài cánh lớn, mỏ cong; chẳng có tiếng hót du dương hay tiếng kêu đĩnh đạc. Không giàu, không đẹp trai, chẳng oai oách. Chim trống ta chỉ có một tấm lòng, sự cần mẫn. Thứ làm con chim mái chọn hay không chọn hắn, là “tòa lâu đài” chứa cả tấm chân tình (theo dân gian, không đẹp giai thì phải giàu có, lầu son gác tía). Dường như, biết được giá trị của gác tía lầu son đó, chú chim trống hay “GATO” ở tán rừng bên cạnh, cứ chờ chàng bên này vắng nhà, đi nhặt thêm lá lẩu, cành cây hay vài nút chai nhựa màu, là xông tới phá phách. Có lúc hắn còn đánh kẻ không trêu gì hắn. Chim chả biết sử dụng lửa để phóng hỏa. Chú ta dùng mỏ, xé tan các cấu kiện tỉ mỉ kỳ khu của tình địch. Lũ chim mái đa đoan và khảnh tính, có khi nhìn thấy gã bẩn tính mà siêu lòng luôn, bỏ mặc trước kẻ thật thà bị phá nhà “áp đáo tại gia” kia. Đời nó thế. Con cái nhiều khi nhẹ dạ, mê lú, vàng thau lẫn lộn, thế thì mới là con cái…
Đi vào thiên nhiên, mới thấy vì sao thế giới người ta đi chụp chim nhiều, thay vì chụp voi, hổ hay cầy cáo. Là bởi vì thế giới các loài chim quá sức đa dạng, mỗi nàng một nhan sắc, muôn hình vạn trạng. Chim lại phân bố hầu như khắp từ Nam tới Bắc bán cầu, có thể gặp quanh nhà, quanh mọi công viên vườn hoa, nhưng cũng có nhiều loài đặc hữu chỉ có ở một hòn đảo hay một vùng lãnh thổ nho nhỏ nào đó. Bạn phải vượt qua cả vạn cây số đường trời, tiêu tốn khoản tiền tương đối “khủng”, lại thêm phải có sẵn duyên trời nào đó, mới có cơ hội gặp được chúng. Vẻ ngoài của các loài chim kỳ dị thế nào, có lẽ hãy để các bức ảnh hay video mô tả. Còn về tập tính, thì như đã nói, chúng làm người ta chỉ còn cách thốt lên: Ông Trời thật kỳ khu, thật là một họa sỹ trứ danh, một kiến trúc sư kinh điển, một nhà sáng tạo tài hoa và “điên rồ” nhất. Đó là lý do mà người ta đã phải gọi nhiều loài chim là thứ… đến từ hành tinh khác.
Như loài kền kền vua ở Nam Mỹ. Với gương mặt đa sắc màu, các thăn thớ, u mấu, cục thịt thừa lúc lỉu ngoài sức tưởng tượng. Đó là loài chim tôi từng chụp: Rupicola. Gương mặt, phần đầu và ngực chúng là một “miếng bọt biển” mịn màng rực sắc, hoặc đỏ đọc hoặc vàng ươm (tùy theo giới tính). Đôi con mắt đen láy với viền trắng ngà mê mải điểm xuyết hai bên má của cục bọt biển sắc màu. Nhìn chúng giống con chim nhựa, chim đồ chơi hơn là chim hoang dã đang nhảy nhót. Nhưng, vẻ đẹp của chúng thật ma mị, nhất là khi tung hứng trong các khu rừng yêu thích ở dãy Andes, xương sống vùng Nam Mỹ. Chúng là quốc điểu của Peru. Đến mùa bắt cặp chuẩn bị giao phối, cái mào hình rẻ quạt của chim trống trở nên mượt mà theo bộ lông cưa gái.
Lạ nhất về lối sống và hình dáng, phải kể đến chim thiên đường (bird of paradise) Greater Iophorina chỉ sống ở vùng Papua (thuộc Indoneisa và Papua New Guinea), màu sắc của chúng đẹp sững sờ. Tôi nghĩ, các hãng xe hơi hay điện thoại thông minh đắt tiền nhất thế giới, nên cố gắng pha chế, “mượn” được cái màu này mà làm hàng xa xỉ. Chưa kể là hình dáng: từng chỏm lông óng ánh xà cừ trên đầu, ở đuôi, từng tán lông lấp lóa ở ngực chúng, điều là kiệt tác của tạo hóa.
Gần 40 loài chim thiên đường chỉ có ở Papua, đã đốt mất hàng triệu đô la Mỹ và 8 năm miệt mài của nhóm nhà khoa học, nghệ sỹ, dẫn đầu là Tim Laman (làm cho một trường Đại Học Mỹ) tìm hiểu, ghi hình theo cách công phu nhất thế giới. Họ cài cả những cái đèn với chiết áp siêu tinh vi trong các cánh rừng tối (để khẽ khàng chỉnh tăng ánh sáng khi sâm sẩm rối hoặc rim rỉm sáng). Khi chim thiên đường trống múa gọi bạn tình, họ làm cả lều trên cây cao và đặt cả những ống kính “siêu đắt” của các hãng máy ảnh (quá đắt nên không thể sản xuất bán hàng loạt).
Chim thiên đường trống có thể dành nhiều ngày để cắp từng cọng lá khô, ngắt bỏ cành cây và cọng lá tươi, dọn nền đất thật nhẵn mịn cho cuộc múa gọi bạn tình. Có khi múa trên ngọn cây, khi múa dưới mặt đất, nhưng nhất thiết phải là khi trời sắp tối hoặc sắp tang tảng sáng. Cực kỳ khó quan sát và chụp ảnh. Do số lượng chim mái ít, nên cuộc đọ sức, phô diễn tài năng và vẻ đẹp, sự oai phong của chim trống để giành con mái là cực kỳ khốc liệt. Và cuộc múa kinh điển của gần 40 loài chim thiên đường trống (như báo chí ca tụng), là: “đẹp, kỳ quặc, phức tạp vào bậc nhất trong thế giới các loài chim, để thu hút con mái”. Đây cũng là lý do để chim thiên đường “nhất thế giới” trên quá nhiều phương diện: chúng buộc phải tiến hóa để lạ, đẹp, tuyệt vời từ hình dáng, điệu múa đến giọng hót. Để được chim mái chọn và được duy trì nòi giống, để cây tiến hóa “bước theo” về phía sự ưu tú mà chúng đang sở hữu.
Nhân đây lại nhớ đến loài chim cốc biển ở Đảo Giáng Sinh chênh vênh giữa Ấn Độ Dương (thuộc lãnh thổ Úc, nhưng đảo nằm cách sân bay gần nhất ở TP. Perth của Úc tới 3 giờ bay; trong khi chỉ cách các đảo lớn Sumatra hay Java của Indonesia khoảng 350km đường biển), chúng chỉ có ở đảo này, mà không có ở nơi nào khác trên thế giới (ở hành tinh khác thì chưa ai kiểm tra). Sau khi quyến rũ được bạn tình, ốp dọc cổ phía trước, dọc diều và ngực chúng tự phồng lên một quả bóng. Quả bóng dài, to hơn cả cơ thể chúng, đỏ chót, ngoài vỏ lún phún vài sợi lông đen. Khoa học viết: chúng làm thế để đánh dấu là mình đã “có chủ”, tức là đã thuộc về một “người đàn bà duy nhất nào đó”. Thủy chung thay. Người ta hay giấu nhẫn cưới đi để cưa gái (cưa giai), chứ mấy ai tự khoác một cái áo viết chữ “đã có vợ” rồi để đi bát phố bao giờ. Có người hài hước thốt lên như vậy.
Có loài hoa (đơn tính) to nhất thế giới Rafflesia ở khu vực Borneo, hòn đảo lớn thứ 3 thế giới, trùm lên lãnh thổ của 3 quốc gia Malaysia, Indonesia, Brunei. Hoa này đỏ như một miếng thịt bò nạc vừa phanh ra, bốc mùi tanh thối như phản thịt thối rữa, đường kính hoa lên tới hơn một mét, nặng ở mức khó tin: 11kg! Chúng nở và tàn rất nhanh (khoảng 5 ngày) với những kỷ lục không thể lý giải nổi. Và mùi thối kinh tởm của chúng có chức năng thu hút côn trùng, ruồi muỗi, bọ cánh cứng, đủ loài ăn xác thối đến để giúp nó thụ phấn. Thật là một “phép tính” kỳ diệu và kỳ dị!
Những đứa con “bé bằng hạt đậu” của loài vật nặng 90kg, cao 2m!
Hay như 130 loài hoa nắp ấm, chúng biết tiết ra thứ si-rô, nhớt, đàn hồi, được coi là một loại polymer sinh học. Thứ này dụ côn trùng tới, làm cho chúng ngã và rữa xác trong bể chứa “hóa chất sinh học” đặc biệt, nhằm cung cấp dưỡng chất cho hoa và cây. Nhiều nơi họ gọi đây là các “monkeys cup” tức là cái ấm nước, cái dụng cụ đựng nước để khỉ cầm vào và “nâng ly” với nhau. Tuy nhiên, dù mưa gió bão bùng, cái cốc đầy nước lại tràn ra ngoài, mà “chất nhớt” đàn hồi trong cái bẫy “ấm nước” đó vẫn không bị loãng hay mất tác dụng. Quanh “ấm” còn tiết ra lớp mật thơm, với các “lông tơ mịn” đầy màu sắc bắt mắt (là món ăn khoái khẩu của hàng trăm loại côn trùng khác nhau); để dụ dỗ các con mồi nhẹ dạ và háu ăn. Trong lòng ấm, có lớp gai mọc từ đài hoa hướng xuống, thành cấm có lớp sáp trơn để côn trùng sa bẫy bị trơn truội không tài nào bò lên tẩu thoát nổi, nạn nhân nào cố bay lên thì sẽ bị “những mũi tên” ngăn hoặc xiên chết. Cả động vật có xương sống nhỏ, chuột, ếch và thằn lằn cũng là “thức ăn” của loài cây, loài hoa “sát thủ” này.
Đôi khi, “văn hóa cộng sinh” thú vị được thể hiện rất rõ ở đây. Cây nắp ấm nhử được cả đàn chuột chù tới ăn no các loại mật hoa, rồi, để trả ơn, chuột ta phóng uế vô tội vạ vào các cái ấm có nắp của “thân chủ” nhằm cung cấp tới 70 - 100% số Ni-tơ thiết yếu mà loài “hoa ăn thịt” này rất rất cần để phục vụ việc sinh trưởng. Nghe nói, lúc cao tay, nhiều loài cây nắp ấm có thể đóng cái nắp của mình vào cái ấm (hoa) để “nấu” côn trùng và vài loài động vật khác.
Nhân đây, lại nhớ tới loài rùa cá sấu ở đáy đại dương, chúng biết để rêu trùm lên cơ thể mình phơ phất lam nham giống y như hòn đá cổ xưa cũ càng. Rồi “cụ rùa” há miệng ra, cái miệng cũng y như hang hốc, rong rêu, đá tảng. Lũ cá bắt đầu thung thăng bơi. Rùa có một cái lưỡi, gồm nhiều niêm mạc có thể thò ra phất phơ như côn trùng, như cọng rêu, để mời gọi các loài cá tới. Cá tới đớp vào cọng lưỡi rùa, là rùa ta khập miệng vào với tốc độ siêu nhanh trời phú (các nhà khoa học đã đo, chỉ 0,03 giây). Nhai hoặc nuốt chửng lũ cá. Trí nhớ của cá rất kém, cho nên có khi vừa bị ngậm miệng bắt trượt, vài phút sau, lại lửng lơ mơ màng đi qua “vách đá” rong rêu - là đầu và bộ hàm rùa cá sấu; lại tớp nhẹ đòi ăn cái cọng rêu đẹp đẽ, tươi rói, phất phơ - là lưỡi rùa. Và con vừa sống sót ba phút trước có thể vĩnh viễn đổ đời vào trong bụng cụ rùa.
Hãy đặt mình trong lịch sử tiến hóa của các loài và sinh cảnh kỳ dị của chúng, mới hiểu vì sao có loài ếch ngồi dưới mặt nước, mà biết ngậm nước bắn thành tia, “xỉa” trúng rồi làm rụng con kiến, con mối ở tít trên cây cao xuống. Và nuốt chửng. Tôi khám phá dọc dài nước Úc, chụp ảnh Kangaroo (loài vật biểu tượng của nước Úc) với đủ thể dạng, nhưng ngạc nhiên nhất là việc loài chuột túi to đùng này, con non sinh ra lại có thể bé đến… kinh ngạc. Con non ra đời khi chưa có mắt, tai bé tí ti, chiều dài của chúng chỉ có 2,5cm, nặng chỉ 0,8 đến 1 gram. Sinh ra, chúng tự bò lên cái túi trước ngực của mẹ, nằm trong đó tránh rét, tránh nắng, tránh bị ăn thịt hay dẫm chết, bú sữa mẹ suốt gần một năm trời (và view - tầm nhìn - từ trên cái túi cao gần 2m trước ngực mẹ như thế tuyệt vời). Rồi mới thênh thang “đi vào đời”. Nhiều tài liệu viết rõ: sinh ra, Kangaroo non chỉ “bé bằng hạt gạo”, “bằng hạt đậu”. Vì con mẹ vụng về, to lớn (Kangraroo đỏ nặng tới 90kg, dài tới 2,8m), chân tay lóng ngóng, đứng tự vệ phải dùng đến sức mạnh của cái đuôi to đùng, nên khi con bé bằng hạt đậu mà không tự bò vào túi của mẹ được; hoặc chẳng may bị rơi ra khỏi đó, thì bà mẹ cũng đành… ngậm ngùi bỏ đi. Chứ làm sao mà nhón tay nhón chân “nhặt” lên được?!
Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: thiên nhiên là vậy, nó vốn tự cân bằng, sắp xếp và tự tiến hóa theo cách riêng của chúng, có khi qua hàng triệu và cả tỷ năm. Con người chỉ việc cố mà hiểu rồi ứng xử tôn trọng sự cân bằng và tiến hóa đó, thế đã là tuyệt vời lắm rồi.