Đỗ Hải Dũng, một đường thơ, một đời thơ
(TN&MT) - Bạn đang có trong tay tập Thơ chọn lọc của nhà thơ Đỗ Hải Dũng. Gần ba trăm bài thơ được tuyển chọn từ năm tập thơ dày dặn Đất thiêng (2001), Hoa cỏ (2004), Gần và Xa (2008), Mảnh vỡ (2009) và Khúc ru tôi (2020) không chỉ ghi nhận hành trình dẻo dai của một cây bút đầy đam mê, bền bỉ gắn bó với thơ suốt nửa thế kỷ qua mà còn cho thấy những bước phát triển rất ấn tượng của thơ ông qua từng chặng mốc sáng tác.
Bạn sẽ gặp lại ở tuyển thơ này những cảm xúc hồn hậu, chân chất từ cái thuở ban đầu Đỗ Hải Dũng đến với thơ - Những cảm xúc được khởi nguồn trực tiếp từ hiện thực đời sống, đặc biệt cuộc sống của những nhà địa chất “Đi tìm quặng ngọn nguồn”, tìm tài nguyên khoáng sản làm giàu cho Tổ quốc. Mỗi sáng tác đều lấp lánh những “bụi vàng” của thực tế, của tâm trạng. Với cách nhìn, cách cảm, cách thể hiện dung dị và tươi mới, thơ Đỗ Hải Dũng mang đến cho người đọc những khám phá bất ngờ về những “vỉa quặng” tâm tình của các nhà địa chất giữa đại ngàn hoang sơ. Ở đó có nỗi nhớ, niềm yêu; có tình cảm đồng đội sẻ chia gắn bó, cùng vượt qua những thử thách, gian nan của không gian xa cách, của địa hình hiểm trở và vô vàn thiếu thốn, khó khăn. Ở đó có những suy tư trăn trở, những buồn vui, khao khát; có những hy sinh thầm lặng mà vô chừng cao quý. Như một viện bảo tàng thơ Đỗ Hải Dũng đã ghi lại, tạc lại, lưu giữ lại cho chúng ta những hình ảnh đặc trưng của ngành địa chất Việt Nam ở cái thuở sơ khai với những “Phố địa chất” “Lán dựng đơn sơ thơm mái lá/ Cánh rừng xa gió vọng, đu đưa”, với chân dung đầy ấn tượng của các nhà địa chất:
Chiếc ba lô trĩu hình giọt nước
Bóng anh như tên cắm lưng đèo
Sáng đi tìm quặng, chiều xuống núi
Hai vai anh cõng mặt trời theo
(Bóng anh)
Sức hấp dẫn của thơ Đỗ Hải Dũng ở mảng thơ này chính là ở sức gợi: Gợi cảnh, gợi không khí, gợi tâm trạng. Thơ do vậy chạm đến được nỗi niềm và tạo được sự day trở, đồng cảm đồng điệu nơi người đọc. Nhiều bài thơ của ông: Đêm chợ Đồn, Chiều Tây Bắc, Chiều biên giới… đã được phổ nhạc, trở thành những thi phẩm, nhạc phẩm “ruột” của cả ngành địa chất. Vượt qua sự sàng lọc nghiêm ngặt của thời gian, đến nay thơ và nhạc của Đỗ Hải Dũng vẫn mới, vẫn hấp dẫn, vẫn thực sự là những “hương vị lạ” trong dòng mạch thơ nhạc về ngành địa chất Việt Nam.
Càng ngày trường cảm xúc trong thơ Đỗ Hải Dũng càng mở rộng, càng phong phú, đa dạng hơn. Từ những cảm xúc chân chất, hồn hậu ban đầu, thơ ông vươn xa hơn, khơi sâu hơn vào những tầng vỉa chung của nhân sinh thế sự, của dân tộc, thời đại. Qua tuyển thơ này, một lần nữa bạn cũng lại có dịp cảm nhận sâu sắc hơn tình yêu quê hương đất nước - một dòng mạch trong trẻo và dào dạt trong thơ Đỗ Hải Dũng. Với quê hương, Đỗ Hải Dũng luôn dành một tình yêu âm thầm, bền bỉ mà đằm thắm, thiết tha. Hiển hiện trong thơ ông khi là những nỗi nhớ, những kỷ niệm được thức gợi từ trong ký ức; khi là những “Bức tranh quê” khắc họa sinh động khung cảnh sinh hoạt thân quen ấm cúng của làng quê; khi da diết, khắc khoải xa xót trong những hoài niệm về ông bà, cha mẹ, về những người thân yêu; khi bồi hồi, thổn thức với những “Lời ru xưa” đằm thắm nghĩa tình; khi xót xa với nỗi niềm tha hương, ly biệt… Ở vạt thơ này, nhiều bài thơ của Đỗ Hải Dũng: Khoảng trời tuổi thơ, Đất thiêng, Lời ru xưa, Lối cũ gót xưa, Đơn côi, Lục bát ngày xưa, Ngoại ô, Tha hương… đã thực sự tạo được sức ám ảnh đối với người đọc. Ở đó, thơ vừa hàm chứa tinh hoa của cảnh, tinh chất của hồn quê, tình quê, vừa đằm chín tâm tình của nhà thơ.
Từ tình yêu quê hương, thơ Đỗ Hải Dũng mở đến những tình cảm chung rộng lớn: Tình yêu đất nước, con người. Đất nước vốn là một nguồn cảm hứng dồi dào, phong phú, nơi thơ Việt đã có nhiều tuyệt phẩm. Tuy nhiên, từ góc độ riêng, từ tâm tình riêng và cách thể hiện độc đáo riêng, Đỗ Hải Dũng vẫn có được những cảm xúc mới, những khám phá mới về đất nước Việt Nam “vất vả, đau thương, tươi thắm vô ngần”. Đỗ Hải Dũng đã đi, đã đến và làm thơ về nhiều miền đất nước ân tình sâu nặng. Điều đáng nói là, Đỗ Hải Dũng không làm thơ theo kiểu “du ký”. Sự mở rộng không gian trong thơ ông gắn với việc mở rộng trường cảm xúc của nhà thơ. Mỗi vùng đất do vậy mang ý nghĩa một không gian nghệ thuật, nơi nhà thơ gửi gắm tình cảm, tâm trạng, nghĩ suy của riêng mình. Chính nhờ vậy, Đỗ Hải Dũng đã có được những bài thơ thật tình cảm, tình tứ, đằm sâu tâm trạng. Đây là tâm trạng của nhà thơ khi đến và nghĩ về mảnh đất Hoa Lư:
Thuyền về đậu bến Trường Yên
Đất xưa vẫn nổi một triền hoa lau
Mái đầu bạc giữa trắng phau
Mình như cũng đã thành lau đất này?
(Hoa lau)
Và đây là nỗi niềm của nhà thơ khi trở về vùng “đất thiêng” - nơi người mẹ thân yêu của ông vẫn lưu lạc cả ở “cõi về”:
Nghĩa này xin gửi khói hương
Nối tình mẫu tử yêu thương tháng ngày
Nâng niu nắm đất trong tay
Gặp hơi ấm mẹ, đất này đất thiêng
(Đất thiêng)
Còn nhiều bài thơ cũng trĩu nặng tình cảm, tâm trạng như thế. Và đó cũng là nét xuyên suốt, tạo nên đặc sắc của thơ Đỗ Hải Dũng.
Trong mạch nguồn cảm hứng về quê hương, đất nước, Đỗ Hải Dũng có những bài thơ, những câu thơ thật thấm thía, xúc động về vùng biển đảo quê hương của Tổ quốc: Đất biển, Đảo khát, Nơi bắt đầu Tổ quốc, Người mặc áo lính, Lời thề… Không còn chung chung, trừu tượng, Tổ quốc thật gần gũi, cụ thể, máu thịt. Tổ quốc là những cột mốc “Biết thẳng lưng cắm xuống làm tin”, những cột mốc đã “Bốn ngàn năm thao thức không yên” kiên cường, bền bỉ vẽ nên hình đất nước “Dọc ngang trải suốt hai chiều”. Tổ quốc là những hòn Đảo khát nơi “cái nóng đốt thiêu đen nòng súng”, nơi “cỏ chẳng thể mọc lên”, nơi “Cát và đá mặn hơn nước biển”; là những vùng “Đảo đá” khô cằn, khắc nghiệt “Sóng đập trắng trời/ Gió quất tóc người đứt sợi”
Tổ quốc là từng tấc đất đảo “Đã bao năm biển động chưa yên”, nơi cha ông đã bao đời phải đánh đổi máu xương để gìn giữ:
Trời ta xanh, biển đất ta xanh
Những hòn đảo neo giữ cờ Tổ quốc
Những con sóng đo từng mép nước
Bốn ngàn năm, một tấc Tổ quốc ta
Chưa chịu mất bao giờ
(Đất biển)
Ở mảng thơ này, Đỗ Hải Dũng có được những đóng góp riêng. Ông biết “bắt” lấy những vấn đề nóng hổi của đời sống để nói cái vĩnh cửu, muôn đời và lấy cái vĩnh cửu, muôn đời để nói những vấn đề thời cuộc nóng hổi. Thơ nhờ vậy vừa có độ ấm nóng, cập nhật, thời sự vừa có độ kết tinh, sâu lắng. Đồng cảm, đồng điệu với tình cảm sâu xa của cả nước, thơ Đỗ Hải Dũng góp phần bồi đắp một tình cảm thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.
Đến với tuyển tập thơ này, tôi cũng muốn bạn đọc đi sâu vào cảm hứng thơ nghiêng về thế sự của Đỗ Hải Dũng. Như một hệ quả tất yếu, sau những từng trải, chiêm nghiệm thơ Đỗ Hải Dũng ngày càng đậm sâu suy tư, trăn trở. Từ trực cảm thơ ông dần ngả về hướng của suy cảm. Thơ kết lắng tâm trạng và nỗi niềm. Dòng suy tư của Đỗ Hải Dũng dồn tụ về con người, về nhân tình thế thái. Với cách nhìn cuộc đời điềm đạm, thấu đáo, nhà thơ đã có được những đúc kết có chiều sâu, nhiều khi đậm chất triết lý. Ông hiểu cái tất yếu của quy luật sống để biết bình thản ứng xử, để đừng thảng thốt trước mỗi “Mùa lá rụng”:
Em ơi, đừng gom lá
Cứ để lá vàng bay
Chiều đi, ta ở lại
Với lá rơi rụng đầy
Và cũng bởi thế càng thấm thía, điều quan trọng hơn là phải biết sống, biết “Lánh xa cái cõi đam mê/ Bon chen, chộp giật” ngay giữa dòng đời bộn bề, phức tạp với cả những “khúc trong, khúc đục, khúc nông, khúc đầy”. Từ những điều tưởng chừng rất “mong manh” ông đúc kết thấm thía những vấn đề cốt lõi, vĩnh cửu: “Cái mất là cái còn” và nhiều khi “Cái còn là cái mất”… “Mất mất còn còn/ Nhịp thời gian gập ghềnh, phách đảo”, đó là lẽ thường tình trong cõi nhân gian. Từ bốn mùa thời gian vần chuyển tự nhiên ông nghĩ về cách sống, lối sống của con người thời nay “Có gì thật như con người”, “Người có sống thật với người?”… Rộng hơn Đỗ Hải Dũng nghĩ về chân lý “Chân lý là thực tại/ Chân lý là thời gian”. Từ “Màu thời gian” ông nghĩ về sự hưng - phế, mất - còn và từ đó những bài học, những triết lý nhân sinh sâu sắc.
Đỗ Hải Dũng thường hướng tới tâm tính thiện: Thiên nhiên đẹp, con người thân thiện, trung thực, nhân từ và xót xa vì sự tha hóa, xuống cấp của nhân cách, của nhân tình thế thái. Sâu sắc, từng trải việc đời, việc người, ông nhận chân “Thật giả đo bằng ánh mắt”; “Chén thật thà uống cạn/ Bỗng dưng thấy nhẹ nhàng”; ông day dứt trước những đổi thay, hẫng hụt: “Trăng sáng nửa, lòng người khuyết nửa/ Mưa về thao thức giọt đêm rơi”. Trước sự xuống cấp nghiêm trọng của nhân tình thế thái, của đạo lý “Cái thật lẫn vào cái giả”, cái hư đánh bại cái thực, cái giả giết chết cái thật; lời nói dối “dễ lọt tai”, lời nói thật lại làm “đau” người nghe; hợm hĩnh, ngộ nhận, xu nịnh đã thành “thói quen” khiến con người “nhìn nhau không thẳng”… Đỗ Hải Dũng buồn bã cảm nhận và đặt ra những câu hỏi vừa đầy chiêm nghiệm vừa cảnh báo, vừa lo âu, xa xót: Có phải “Trái đất nóng lên/ Trái tim người lạnh giá? ”.
Có thể nói, không ngừng ưu tư về con người, về cõi người là một cảm hứng lớn xuyên suốt trong thơ Đỗ Hải Dũng. Và khi nghĩ về con người, ông không khỏi xót xa trước những biến thiên, suy thoái môi trường sống của con người, trước những biến cải khôn lường của thế gian với bao nhiêu nghịch cảnh: Đô thị mở rộng vô lối làm “sập sệ” triệt tiêu cả những giá trị lịch sử, văn hóa, tâm linh; khu công nghiệp phát triển tràn lan “nuốt chửng” cả những làng quê trù phú khiến “Làng quê lọt trong tiếng máy… Người bạc tóc, ruộng bạc màu; Đường nóng khô ran”; khiến “Đất không còn mùi của đất”. Ông đau buồn trước sự xuống cấp của môi trường sống ở thành thị một khi đô thị ào ạt phát triển, những tòa cao ốc đua nhau mọc lên khiến Hà Nội nghìn năm văn hiến với những “Hàng cây trăm tuổi”, với “Ba mươi sáu phố phường” trù phú, thanh bình chỉ còn là một Hà Nội trọi trơ với những “Con đường không còn hàng cây”, với những ngôi nhà cổ âm thầm “Một mình đứng khóc hàng cây”. Những nét vẻ thân thương của Hà Nội giờ chỉ còn trong nỗi nhớ:
Mùa thu nhớ cây bàng lá đỏ
Nhớ hương thơm hoa sữa bên hồ
Nhớ tiếng rao đêm thức cùng ngõ nhỏ
Nhớ tiếng con tàu chầm chậm đi qua
(Mùa thu về, mùa thu ở đâu?)
Và mùa thu đặc trưng của Hà Nội, tình yêu, nỗi nhớ của bao người yêu Hà Nội cũng không còn nữa. Chỉ còn một câu hỏi buốt nhức: “Mùa thu về, mùa thu ở đâu?”
Càng ngày những câu hỏi sâu xoáy như vậy cùng xuất hiện với tần suất dày hơn tạo nên chiều sâu cho thơ Đỗ Hải Dũng và đó cũng là nét đặc trưng của thơ ông được thể hiện thật sâu đậm trong tuyển tập thơ này. Điều đáng nói là những suy tư ấy được đúc kết từ những gì ông đã sống trải, suy ngẫm giữa nhân tình thế thái cuộc đời hiện hữu, nhờ vậy suy tư, triết lý mà vẫn đằm sâu tâm trạng, nỗi niềm, vẫn ấm nóng hơi thở đời sống, tránh được lối tư biện “ngồi nghĩ” nên thấm thía mà thiết thực. Duy lý mà không khô cứng mà vẫn đậm chất thơ, và bởi thế thơ Đỗ Hải Dũng có sức cuốn hút người đọc, giúp người đọc thức ngộ được biết bao điều đích đáng về cõi nhân sinh.
Cùng với việc mở rộng trường cảm xúc, gia tăng khả năng dồn nén, tạo độ chín cho cảm xúc, thơ Đỗ Hải Dũng ngày càng đằm chín hơn, đa dạng hơn trong bút pháp thể hiện. Bên cạnh những bài thơ nhẹ nhàng, tình tứ ông có những bài thơ thật sức vóc hoặc đậm chất triết lý, suy tư. Đồng thời với việc làm mới, gia tăng hiệu quả nghệ thuật của các thể thơ truyền thống, thơ Đỗ Hải Dũng thăng hoa, phóng khoáng ở thể thơ tự do. Cùng với việc vận dụng nhuần nhị lối ví von, so sánh, ần dụ tình tứ của thơ ca dân gian, Đỗ Hải Dũng có những sáng tạo mới mẻ, nhiều khi táo bạo trong cách sử dụng ngôn từ, trong cách ngắt câu, gieo vần, tạo nhịp điệu, đặc biệt trong sáng tạo hình ảnh thơ.
Thơ Đỗ Hải Dũng giàu hình ảnh. Đọc thơ ông có cảm giác được đến với một khu vườn thơ sum suê hình ảnh với đủ sắc màu.
Một vùng quê “Mùa đông”:
Chiếc lá đỏ đã rụng cuối sân
Cọng rơm vàng co mình trong giá buốt
Một Xóm vắng “Hương quê dìu dịu trời xanh ngắt” sau một vụ gặt bội thu:
Hạt mẩy tựa chiếc thuyền nho nhỏ
Mầm nhô, căng một cánh buồm
(Sau mùa gặt)
Những lễ hội dân gian nồng nàn,
say đắm:
Trăng lên thuyền đã thêm đông
Sông đầy tiếng hát, nặng cong mái chèo
(Đi hội)
Dường như thơ Đỗ Hải Dũng “nói” bằng hình ảnh. Ông nói tâm trạng bơ vơ, lạc lõng của con người trên chính quê hương mình qua hình ảnh “Ao sen lạc một cánh chuồn”; nói vẻ đẹp thanh bình của làng quê trong hình ảnh “Đêm nhú mầm trăng ló ánh vàng”; nói sức vóc khỏe khoắn của những người lính trẻ trên vùng đảo khát qua hình ảnh “Vóc như đá đảo lên mầm”. Cũng như vậy là hình ảnh “Con thuyền nhỏ” mà làm “xô lệch bóng trăng” đầy ấn tượng:
Chỉ có một con thuyền
Mà chèo vênh ngọn sóng
Không chỉ hấp dẫn bởi những hình ảnh trực tiếp, tươi ròng sự sống, thơ Đỗ Hải Dũng còn đặc biệt cuốn hút người đọc bằng những thi ảnh đã được khúc xạ trong tâm cảm của nhà thơ, đầy sức ám ảnh, vừa gợi cảm lại vừa gợi nghĩ:
Mưa li ti mưa đi qua phố
Tiếng gió đổ đầy thung lũng âm dương
(Cô gái ở chợ đêm Sa Pa)
Để thể hiện được thế giới cảm xúc phong phú, đa dạng của mình, Đỗ Hải Dũng sử dụng nhiều thể thơ. Điều đáng nói là ông không chỉ vận dụng thành thục mà luôn có ý thức và khả năng sáng tạo, làm mới trong từng thể thơ. Lục bát vốn được coi là thể thơ dễ làm khó hay. Không ít nhà thơ đã sa lầy trong thể lục bát. Đỗ Hải Dũng biết khai thác những thế mạnh của thể thơ này đồng thời vận dụng rất có duyên, rất trẻ lối so sánh, ẩn dụ dân gian để tạo được vẻ tươi mới, hiện đại cho thể thơ lục bát và từ đó vẻ ý nhị, tinh tế vốn là nét đặc sắc riêng của thơ ông:
Bên này Mũi Né chiều mưa
Bên kia Mũi Né lưa thưa nắng vàng
Vô tình em bước chân sang
Giữa hòn mũi Né nắng vàng gặp mưa
(Vô tình)
Thơ tứ tuyệt là loại thơ khó viết, đòi hỏi phải có “tay nghề” cao và trình độ tư duy khái quát. Tứ tuyệt đòi hỏi dưới một hình thức “nhỏ” - chỉ với bốn câu thơ; với một lượng ngôn từ ít nhất, phải “nén” được, truyền tải được một lượng thông tin nhiều nhất; phải tập trung cao độ làm bùng nổ cái cốt lõi, tinh túy của hiện thực; phải tạo được những gợi cảm và âm vang đặc biệt, những khoảng lặng, những khoảng trống cho người đọc đồng sáng tạo. Đó là một cấu trúc hoàn chỉnh, cân đối, ý tứ thâm trầm sâu sắc, ít chi tiết, không rườm rà và thường khép lại một cách bất ngờ mà hết sức tự nhiên:
Róc rách đêm ngày trăm suối nhỏ
Dồn về thành thác trắng phau
Thời gian tụ lại dòng suy nghĩ
Tóc bạc phơ, thác đổ trên đầu
(Thời gian)
Chợt đến, chợt đi mưa lất phất
Nắng lên, nắng tắt lối ưu phiền
Em đến, em đi như mưa bụi
Lối rẽ nhà anh đất khô nguyên
(Mưa bụi)
Có thể nói, trong cái chất liệu thô của hiện thực đời sống, Đỗ Hải Dũng đã cẩn trọng khai vỉa, kỹ lưỡng sàng lọc quặng để có được những bài thơ tứ tuyệt ấn tượng, mới mẻ, tạo nên vẻ sâu sắc, thâm thúy cho thơ ông. Thơ tứ tuyệt là sản phẩm tinh thần văn hóa phương Đông, nhưng ở phương Đông ngày nay cũng ít người can đảm dấn thân vào thể thơ này. Thế nên, dồn tâm huyết cho thơ tứ tuyệt cũng chính là một cách thể hiện cái chất phương Đông trong tâm hồn, trong rung động thơ của Đỗ Hải Dũng.
*
* *
Khi “Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ” nhà thơ Chế Lan Viên từng chia sẻ đại ý: Bài thơ anh chỉ làm một nửa, còn nửa kia anh dành để cho đời, dành cho sự cảm nhận của người đọc. Với khả năng đồng sáng tạo, đến với tuyển thơ này, mỗi người đọc sẽ lại có những cảm nhận riêng, lại có thể khám phá được những tầng vỉa giá trị nhân văn mới, sâu xa và thiết cốt. Nhưng tựu trung lại mọi người đều có thể hình dung khá đầy đủ về một đời thơ, một cá tính thơ “Giở hay chẳng lẫn giọng mình với ai”, về “người thơ” Đỗ Hải Dũng với một trường cảm xúc phong phú, đa diện. Con người khẽ khàng, tinh tế để cảm nhận đến từng lùm hoa dại “lấm tấm, li ti” lại cũng là người có tầm bao quát đến cả những vấn đề mang tầm nhân loại, thời đại: “Trái đất nóng lên/ Trái tim người lạnh giá? ”; người vừa tình tứ, đằm thắm trong những “ngập ngừng”, dùng dắng “nửa sang, nửa ở” lại cũng là người sắc sảo, thấu đáo trong những cảm nhận, chiêm nghiệm thấm thía về lẽ đời, về nhân tình thế thái; người luôn hoài niệm kỷ niệm về quá khứ, lịch sử cũng lại là người thật thức thời trong những cảm nhận sâu xa về những vấn đề “thời sự” nóng hổi của thời cuộc; người đắm say ngỡ như ở “cõi mộng” “cõi mê” “ngả lẫn bóng mình vào hoa”, lại cũng là người tỉnh táo, riết róng trong những cảnh báo thiết thực “sát sườn”. Nhưng dù viết về gì thì đằm sâu trong từng con chữ vẫn là một chữ TÂM, là tâm tình sâu nặng nhà thơ dành tri ân với cuộc đời, với người thân, với bạn bè, đồng nghiệp. Và bởi vậy, hy vọng đến với Thơ chọn lọc của Đỗ Hải Dũng mỗi người đều sẽ có được cảm nhận ấm nóng của người tri kỷ, của sự tri âm…