Theo xu thế hiện nay, Việt Nam quyết tâm chuyển dịch từ năng lượng hóa thạch truyền thống sang các nguồn năng lượng xanh, sạch, giảm phát thải khí nhà kính và chống biến đổi khí hậu. Dù vậy, mục tiêu cao nhất vẫn là đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và đảm bảo mọi người dân đều có thể tiếp cận năng lượng với chi phí hợp lý.
Chuyển dịch năng lượng công bằng
Việt Nam đang nỗ lực mạnh mẽ hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Trong bối cảnh đó, dự báo nhu cầu năng lượng và nhu cầu điện quốc gia trong những năm tới sẽ tiếp tục tăng nhanh. Tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu COP26, Việt Nam đã đưa ra cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 và phân công các Bộ, ngành xây dựng kế hoạch hành động trong từng lĩnh vực. Quá trình chuyển dịch năng lượng đang được chỉ đạo đẩy nhanh trên tinh thần phát huy nội lực, đồng thời tăng cường hợp tác, hỗ trợ từ các đối tác quốc tế, các định chế tài chính song phương và đa phương.
Theo ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương, chuyển dịch năng lượng và từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn cung năng lượng quốc gia, giảm phát thải khí nhà kính chính là quá trình căn bản để hướng tới tăng trưởng xanh, cũng như thực hiện các mục tiêu toàn cầu về chống biến đổi khí hậu. Nhưng đây không phải chỉ là vấn đề của nội bộ ngành năng lượng, mà chính là chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế từ mô hình thâm dụng nhiều năng lượng sang sử dụng năng lượng một cách hiệu quả.
Trong bối cảnh đó, Bộ Công Thương đang hoàn thiện Quy hoạch tổng thể phát triển năng lượng quốc gia và Quy hoạch điện 8. Đây là các văn bản định hướng quan trọng, mang tính thiết lập nền tảng cho một hệ thống năng lượng hiện đại, cơ cấu bền vững, có độ tin cậy cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó, 2 mục tiêu cao nhất vẫn là đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong trung hạn và dài hạn để đáp ứng các mục tiêu phát triển; đảm bảo người dân và cả nền kinh tế có thể tiếp cận năng lượng với chi phí hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển và khả năng thực tế của Việt Nam.
Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, quá trình chuyển dịch năng lượng cần giảm thiểu tối đa tác động tới các nhóm và đối tượng dễ bị tổn thương, trong đó, đặc biệt lưu ý đến tác động của tăng giá điện đối với các hộ gia đình nghèo và việc chuyển đổi, mất việc làm của người lao động trong các ngành, lĩnh vực chẳng hạn từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo.
Quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững là trách nhiệm của tất cả các bên liên quan từ Trung ương đến địa phương, các ngành, các cấp, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cộng đồng người dân. Để quá trình này đi vào thực chất, công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát cần được thực thi nghiêm túc. Qua đó, cắt giảm đầu tư và có lộ trình thay thế, đóng cửa các cơ sở sản xuất ô nhiễm, hạ tầng phát thải nhiều carbon - bà Nguyễn Thị Bích Ngọc nhấn mạnh.
Nhu cầu nguồn lực khổng lồ
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới tại Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam, tổng nhu cầu tài chính tăng thêm của Việt Nam để xây dựng khả năng chống chịu và khử carbon, hướng tới phát thải ròng bằng "0" có thể lên tới 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022-2040, hay xấp xỉ 6,8% GDP mỗi năm.
Chi phí của lộ trình khử các bon chủ yếu phát sinh từ ngành năng lượng gồm chi phí đầu tư vào năng lượng tái tạo và quản lý quá trình chuyển dịch ra khỏi năng lượng than, có thể tiêu tốn khoảng 64 tỷ USD từ năm 2022 đến năm 2040.
Nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng chỉ ra, nhu cầu vốn cho chuyển đổi xanh ngành năng lượng cũng chiếm tới 87,6% tổng nhu cầu vốn theo Kịch bản Tăng trưởng xanh – Phát thải ròng bằng 0 trong giai đoạn 2021 – 2030. Nếu tính đến năm 2050, tỷ lệ cũng lên tới hơn 50%.
Chia sẻ về các nguồn kinh phí có thể đáp ứng nhu cầu thực hiện các cam kết của Việt Nam tại COP 26, ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) cho biết, kinh phí sẽ được bố trí từ nguồn ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành, nguồn xã hội hóa, nguồn huy động từ các tổ chức, cá nhân và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định. Bên cạnh đó, nguồn lực cũng sẽ được huy động thông qua hợp tác hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, các quỹ và các định chế tài chính trong nước, quốc tế. Nhà nước khuyến khích đầu tư từ khu vực tư nhân vào các dự án phát triển các-bon thấp, đồng thời, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước nhằm tăng thêm nguồn đầu tư cho phát triển các-bon thấp.
Theo bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững muốn thành công cần phải có sự cam kết hỗ trợ về mặt tài chính/kỹ thuật thực sự từ các quốc gia phát triển.
Để tăng hiệu quả chi phí đầu tư, ông Đặng Hoàng An cũng nhấn mạnh tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc hợp tác nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ năng lượng trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là công nghệ sản xuất điện năng quy mô lớn từ các nguồn năng lượng sơ cấp mới như Hydro, Amoniac, công nghệ lưu trữ năng lượng tiên tiến, công nghệ hấp thụ và lưu trữ CO2... Đồng thời, phải nâng cao nhận thức về tính cấp bách của việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Những vấn đề này sẽ cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể trong thời gian tới.
Theo Bộ Công Thương, 3 năm trở lại đây, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh của năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió với hơn 16,5 GW công suất điện mặt trời được kết nối vào lưới điện quốc gia (chiếm 24,3% công suất lắp đặt và 44% công suất tiêu thụ tối đa năm 2020); gần 4 GW điện gió trên bờ và gần bờ đã vào vận hành.
Nếu tính cả 20,6 GW thủy điện, công suất lắp đặt nguồn điện từ năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay chiếm đến 52,2% công suất lắp đặt toàn quốc.