Lặn ngụp... kiếm tiền triệu mỗi ngày
Mới mờ sáng nhưng ngư dân Nguyễn Văn Phụng, ở thôn Phú Quý, xã Bình Châu đã chuẩn bị các ống dây hơi, vật dụng, thúng chài rồi chèo thuyền ra biển lặn hái rong mơ. Mỗi chuyến ra biển hái rong mơ bắt đầu lúc 5 giờ sáng cho đến xế chiều. Sau khi rong mơ được các người dân lặn hái dưới đáy biển đưa lên chất đầy thuyền, rồi vận chuyển rong mơ vào bờ phơi khô và chờ thương lái đến thu mua.
Tranh thủ nghỉ ngơi lúc bè kéo rong mơ tươi vào bờ, anh Nguyễn Văn Phụng chia sẻ: Gần 3 tuần qua, trung bình mỗi ngày gia đình anh có thu nhập 1,5 triệu đồng từ khai thác rong mơ. Giá năm ngoái chỉ có 6 nghìn đồng/kg, năm nay giá tăng cao, dao động từ 8 - 9 nghìn đồng/ kg nên bà con vui vẻ, có cực khổ chi cũng cố gắng để kiếm thêm thu nhập.
“Khai thác rong mơ rất vất vả, muốn khai thác đạt sản lượng cao nam giới phải có sức khỏe để lặn thời gian dài dưới nước.Tuy nhiên, không chỉ đàn ông mà phụ nữ cũng có thể khai thác rong mơ và đem lại nguồn thu nhập cao cho gia đình. Những người già, trẻ con cũng có thêm thu nhập nhờ việc thu nhặt rong mơ gần bờ và phơi rong cho các hộ đi khai thác nhiều”, anh Phụng chia sẻ.
So với nghề đánh bắt hải sản, khai thác rong mơ dễ dàng và ít tốn kém chi phí đầu tư hơn. Nếu khai thác quy mô lớn, ngư dân sử dụng tàu công suất lớn cùng máy nén khí ô xy để lặn. Người khai thác nhỏ chỉ cần một thuyền thúng bơi ra vùng biển ven bờ là có thể khai thác được.
Có hơn 10 năm chuyên khai thác rong mơ trên biển, vào mùa rong, gia đình 4 người của ông Nguyễn Thành Vũ, sáng nào cũng ra biển từ sáng sớm. Ông cho biết rong mơ hay mọc ở các dải đá, rạn san hô dưới độ sâu từ 4 đến 6m. Muốn khai thác, cần phải chuẩn bị áo quần, kính lặn, dao cắt và cả chì quấn quanh người để tạo độ nặng khi lặn. Tuy mùa khai thác rong mơ chỉ diễn ra trong vài tháng nhưng nguồn lợi thiên nhiên này đem lại cho nhiều hộ dân nơi đây nguồn thu nhập đáng kể.
“Thông thường mùa hái rong mơ từ đầu tháng 6 đến tháng 8 thì kết vụ. Nhưng mùa rong mơ năm nay ít hơn mọi năm nên sẽ kết vụ sớm. Vào thời gian này, đa số những người dân làm biển tại đây đều sử dụng thuyền đi hái rong mơ thay vì khai thác hải sản. Mỗi ngày gia đình tôi khai thác 3 chuyến, mỗi chuyến khoảng 3 tiếng đồng hồ và thu đạt trên 1,5 tạ rong mơ khô. Nghề này vất vả lắm, phải hái nhanh chứ không rong sẽ già, rụng, khó hái và khó bán ” - ngư dân Vũ chia sẻ.
Khai thác hợp lý bảo vệ tài nguyên biển
Việc khai thác rong mơ không những giải quyết được bài toán kinh tế cho người dân ven biển mà còn giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường biển. Với khối lượng hàng trăm tấn rong mơ tươi ở các vùng ven biển Quảng Ngãi, nếu không được thu hoạch, khi già đi sẽ gãy, trôi dạt vào bờ biển, gây ô nhiễm môi trường, bốc mùi hôi thối. Tháng 1- 5 hàng năm là thời gian để cây sinh trưởng, phát triển. Đến tháng 6, cây rong có hàm lượng agar đạt tiêu chuẩn thương phẩm, người dân có thể khai thác.
Ông Phạm Cầu, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Hải cho biết, trên địa bàn xã có khoảng 400 hộ khai thác rong mơ. Hiện ngư dân địa phương đang vào giữa vụ khai thác rong mơ. Nhờ rong mơ mà ngư dân địa phương có thêm khoản thu nhập kha khá để trang trải cuộc sống. Địa phương cũng đã vận động và con ngư dân khai thác rong mơ phải chừa khoảng 10cm phần gốc cho các loại hải sản sinh sôi. Khai thác rong mơ phải đúng mùa, nếu không sẽ làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của tôm cá.
“Ngư dân cũng đã có ý thức hơn trong việc bảo vệ rong mơ, tổ chức khai thác đúng thời vụ và thời gian cho phép. Điều này không chỉ giúp cho ngư dân ven biển có được nguồn thu hàng năm mà còn tạo môi trường thuận lợi cho các loại hải sản về trú ngụ, sinh sản và bảo vệ tài nguyên môi trường biển”, ông Cầu nói.
Nhằm góp phần bảo vệ rong mơ ven biển, tại các địa phương Bình Hải, Bình Châu đã thành lập nhiều tổ tự quản bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. Thành viên tổ tự quản vừa giám sát, vừa tuyên truyền, vận động người dân cùng bảo vệ, có ý thức trong khai thác rong mơ và các nguồn lợi từ biển khác. Nhờ vậy, những mảng rong mơ dọc theo bờ biển Bình Sơn phát triển tốt, thu hút nhiều loài hải sản đến sinh sống và sinh sản, góp phần phục hồi hệ sinh thái biển ven bờ.
Theo ông Cầu, nhờ sự cộng đồng trách nhiệm của người dân thông qua các tổ tự quản và sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ chuyên môn của UBND xã, công an xã, xã đội và tổ tự quản trong tuần tra, kiểm tra, đã giúp Bình Hải chấm dứt được tình trạng người dân khai thác đá san hô trái phép; đưa hoạt động khai thác rong mơ ven bờ đi vào quy củ khi 2 năm trở lại đây, địa phương không có hộ nào vi phạm trong việc khai thác rong mơ trước mùa vụ.
Từ hiệu quả mà mô hình này mang lại, năm 2018, Sở TN&MT từng đề ra mục tiêu nhân rộng mô hình tổ tự quản bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và khuyến khích các địa phương ven biển của tỉnh phát triển mô hình này. Song, từ đó đến nay, mô hình này vẫn chỉ dừng lại ở hai xã Bình Châu, Bình Hải, dù toàn tỉnh có 22 xã ven biển và 1 huyện đảo.
Quảng Ngãi có đường bờ biển dài hơn 130 km, cùng với đó là vùng đới bờ (được tính từ bờ biển ra 6 hải lý) rộng khoảng 2.000 km2. Với diện tích rộng lớn, trải dài như vậy, để quản lý và bảo vệ hiệu quả tài nguyên, môi trường biển, ngoài sự vào cuộc quản lý của các ngành chức năng cần sự đồng hành, tiếp sức của cộng đồng dân cư tại từng địa phương.