Tham dự cuộc họp có GS Mai Trọng Nhuận, GS Trần Thục, GS Nguyễn Khắc Hiếu cùng đại diện các Bộ: Công Thương, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Khoa học và Công nghệ, cùng nhóm các chuyên gia tham gia xây dựng Dự thảo Chiến lược.
Tại cuộc họp, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Thời gian qua, Cục Biến đổi khí hậu đã được Bộ TN&MT giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan trực thuộc các Bộ, ngành liên quan và tổ chức các nhóm chuyên gia xây dựng Dự thảo Chiến lược. Trong quá trình này, Cục đã tổ chức lấy ý kiến các Bộ, ngành và 63 tỉnh/TP về đề cương dự thảo. Cuộc họp ngày hôm nay nhằm lấy ý kiến các thành viên BST, TBT từ các Bộ, ngành, các chuyên gia trước khi hoàn thiện.
Chia sẻ về nội dung dự thảo, ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Quan điểm xuyên suốt Chiến lược khẳng định, BĐKH là xu thế không thể đảo ngược và là thách thức lớn nhất đối với nhân loại. Thích ứng với BĐKH và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” là cơ hội để phát triển bền vững, ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp và mọi người dân.
Việt Nam sẽ ứng phó với BĐKH trên nguyên tắc công lý, công bằng, với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân; dựa trên thể chế đồng bộ, chính sách, pháp luật hiệu lực và hiệu quả, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực và hợp tác quốc tế.
Dự thảo Chiến lược nhấn mạnh, ứng phó với BĐKH là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện. Quá trình này cần sự nỗ lực liên tục, kiên định, thống nhất trong nhận thức và hành động.
Các giải pháp cấp bách giảm mức độ dễ bị tổn thương, tăng cường sức chống chịu trước tác động của BĐKH sẽ được triển khai. Trong đó, ưu tiên cao nhất bảo đảm an toàn, sinh kế cho người dân ở những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề; tập trung phát triển hạ tầng ứng phó với BĐKH, chuyển dịch năng lượng dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, miền.
Để làm được điều này, Việt Nam sẽ tập trung nguồn lực cho ứng phó với BĐKH; phát triển các cơ chế tài chính, thị trường các-bon; thúc đẩy chuyển dịch đầu tư cho phát triển kinh tế ít phát thải; phát huy nguồn lực của Nhà nước làm đòn bẩy thu hút các nguồn lực của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, nguồn lực quốc tế trên cơ sở bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Những quan điểm này đều hướng tới mục tiêu cao nhất của Chiến lược, làm sao để Việt Nam chủ động thích ứng hiệu quả, giảm mức độ dễ bị tổn thương, tổn thất và thiệt hại do BĐKH; giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; tận dụng cơ hội từ ứng phó BĐKH để chuyển dịch mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế; đóng góp tích cực, trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất.
Để chủ động thích ứng với BĐKH và đưa mức phát thải ròng về 0, Dự thảo Chiến lược đã đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 và năm 2050. So với Chiến lược giai đoạn trước, dự thảo lần này đã phân rõ các nhóm nhiệm vụ.
Về thích ứng, nhóm nhiệm vụ nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, đảm bảo sinh kế bền vững bao gồm: Ngăn chặn tình trạng suy giảm, suy thoái, phục hồi các nguồn tài nguyên; Phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực; Rừng và các hệ sinh thái; Phát triển hạ tầng thích ứng với BĐKH; Y tế và sức khỏe; Bảo đảm an sinh xã hội và bình đẳng giới.
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do BĐKH bao gồm: Dự báo và cảnh báo sớm; Phát triển các công trình phòng chống thiên tai; Di dời dân ở khu vực có rủi ro cao trước tác động của BĐKH.
Tương tự, về giảm phát thải khí nhà kính bao gồm các nhiệm vụ chung và nhóm nhiệm vụ riêng theo các lĩnh vực: năng lượng; nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất và thay đổi sử dụng đất; chất thải; các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm công nghiệp. Các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính, đưa mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được lựa chọn trên cơ sở sử dụng các công nghệ, biện pháp giảm phát thải khí nhà kính tiên tiến nhất tại Việt Nam và chuyển giao, ứng dụng công nghệ trên thế giới.
Dự thảo Chiến lược cũng đặt ra các nhiệm vụ về hoàn thiện thể chế, phát huy tiềm năng và nguồn lực ứng phó hiệu quả với BĐKH. Trong đó, chú trọng xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về BĐKH trước năm 2030; truyền thông, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng trong ứng phó với BĐKH; phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; huy động nguồn lực tài chính cho ứng phó với BĐKH; đẩy mạnh hợp tác quốc tế và ngoại giao khí hậu trong ứng phó với BĐKH.
Tại cuộc họp, các thành viên Ban soạn thảo, Tổ Biên tập cùng các chuyên gia đã thảo luận, góp ý về các nội dung quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong dự thảo Chiến lược; các chương trình, dự án ưu tiên triển khai từ nay đến năm 2030; lựa chọn phương án giảm phát thải cho lĩnh vực năng lượng; nhiệm vụ, giải pháp cụ thể hóa cam kết COP 26; chủ trương sản xuất các hàng hóa tiêu tốn nhiều năng lượng đủ dùng cho nhu cầu trong nước, không xuất khẩu; chủ trương hạn chế xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi cho chủ rừng; chủ trương nhà nước mua lại tín chỉ CO2 để đảm bảo mục tiêu giảm phát thải quốc gia.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Lê Công Thành đề nghị thành viên BST, TBT các Bộ sớm gửi văn bản góp ý về Bộ TN&MT. Cục Biến đổi khí hậu tiếp thu các ý kiến và nhanh chóng hoàn thiện dự thảo Chiến lược trong thời gian tới. Đồng thời nhấn mạnh, đây là vấn đề cấp bách bởi hiện nay, các đối tác quốc tế rất quan tâm và muốn đồng hành với Việt Nam ứng phó BĐKH, đặc biệt trong chuyển đổi năng lượng. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm vấn đề này và đã chỉ đạo hết sức quyết liệt nhằm hiện thực hóa các cam kết của Việt Nam tại COP 26.