Bến Tre quan tâm đến nguồn nước ngọt phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân |
Trên 98% dân số sử dụng nước hợp vệ sinh
Theo Tỉnh uỷ Bến Tre, căn cứ quy hoạch cấp nước vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỉnh Bến Tre đã phê duyệt Đồ án điều chỉnh quy hoạch thủy lợi tỉnh và Đồ án điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cấp nước nông thôn; lập bản đồ phân bổ tài nguyên nước dưới đất phục vụ công tác khoanh định khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất; thực hiện công tác quan trắc chất lượng nguồn nước dưới đất và nguồn nước mặt của các sông, kênh rạch chính trên địa bàn tỉnh.
Đối với khu vực Bắc sông Hàm Luông, thời gian qua, tỉnh Bến Tre đã đầu tư trạm bơm nước thô sông Ba Lai công suất 10.000 m3/ngày đêm để cấp nước cho nhà máy nước Hữu Định; đầu tư, nâng công suất một số dự án trọng điểm. Đối với khu vực Nam sông Hàm Luông, triển khai thi công dự án cấp nước sinh hoạt cho nhân dân khu vực Cù Lao Minh trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Bên cạnh đó, từng bước hoàn thiện hệ thống mạng lưới cấp nước TP. Bến Tre và các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam theo định hướng của Đề án.
Đồng thời, đã và đang thực hiện các dự án như: Hồ chứa nước ngọt huyện Ba Tri, dự án thủy lợi Bắc - Nam Bến Tre, dự án quản lý nước Bến Tre; hệ thống cống kiểm soát mặn các huyện Ba Tri, Mỏ Cày Nam, Chợ Lách; công trình ngăn mặn lưu vực cống Thủ Cửu; xây dựng đê bao ngăn mặn kết hợp dường giao thông nối liền 3 huyện biển và liên huyện Mỏ Cày Nam - Thạnh Phú. Ngoài ra, đã hoàn thành dự án xây dựng hệ thống quan trắc dự báo độ mặn và giám sát chất lượng nước tự động thuộc Dự án thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL (AMD) tại tỉnh Bến Tre và tỉnh Trà Vinh.
Theo báo cáo của Tỉnh ủy Bến Tre, qua 5 năm triển khai, kết quả thực hiện Đề án xây dựng hạ tầng cung cấp nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt giai đoạn 2016-2020 đã đạt và vượt các mục tiêu đã đề ra. Cụ thể, tổng công suất sản xuất nước sạch toàn tỉnh Bến Tre đạt 239.000 m3/ngày đêm, vượt 49,4% so với mục tiêu của Đề án; tỷ lệ dân số sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98,5%, vượt 3,5 điểm %. Trong đó, tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch đạt 61%, vượt 6 điểm % so với mục tiêu mà Đề án đã đề ra.
Nước ngọt trở thành vấn đề cấp thiết đối với địa phương Bến Tre |
Đầu tư mở rộng và chú trọng chất lượng nguồn nước
Đánh giá về những kết quả đã đạt được qua 5 năm triển khai thực hiện Đề án, Tỉnh ủy Bến Tre cũng nhìn nhận rằng: Tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh có tăng nhưng vẫn còn thấp và có sự chênh lệch giữa các địa bàn; đa phần các nhà máy nước lấy nguồn tại chỗ để xử lý, khi có hạn mặn sẽ bị đọng về nguồn nước thô, chất lượng qua xử lý chưa ổn định; ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ nguồn nước vẫn còn hạn chế.
Qua đó, Tỉnh ủy Bến Tre đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới để nhằm bảo đảm việc cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho nhân nhân. Trong đó, chú trọng đến việc xây dựng phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước tích hợp vào quy hoạch của tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050. Tập trung đầu tư hệ thống nước máy để tăng tỷ lệ sử dụng nước sạch, dần thay thế nước hợp vệ sinh. Phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ dân số sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 99%, trong đó tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch đạt 70%.
Tỉnh Bến Tre tiếp tục kêu gọi đầu tư phát triển hạ tầng cấp nước theo quy hoạch cấp nước vùng ĐBSCL, quy hoạch cấp nước tỉnh và quy hoạch thủy lợi tỉnh để tăng công suất cấp nước, nhất là các dự án trọng điểm. Hoàn thành dự án cấp nước cho dân khu vực Cù lao Minh. Quan tâm xây dựng hệ thống hệ thống xử lý nước thải các khu đô thị, nước thải công nghiệp, nhất là trên địa bàn TP. Bến Tre, các khu, cụm công nghiệp.
Quan tâm hỗ trợ đầu tư, mạnh dạn giao cho tư nhân quản lý, điều hành việc cung cấp nước ở những nơi đủ điều kiện. Có cơ chế, chính sách thu hút mở rộng hạ tầng cung cấp nước sạch. Kết nối với các nhà máy nước các tỉnh lân cận để tăng cường nguồn nước sạch cho các địa phương hiện còn đang gặp khó khăn. Quan tâm đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư nước sạch cho các xã vùng sâu, xã bãi ngang. Tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân trữ nước ngọt phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
Đồng thời, tăng cường kiểm tra, hỗ trợ các cơ sở cung cấp nước sạch bảo đảm chất lượng. Đối với các dự án đầu tư mới, yêu cầu chất lượng nước phải đạt Quy chuẩn kỹ thuật địa phương về chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Đối với các dự án đang hoạt động, từng bước yêu cầu thay đổi cải tiến công nghệ để hướng tới tất cả đều đạt Quy chuẩn kỹ thuật địa phương về chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Tỉnh Bến Tre cũng kiến nghị Trung ương sớm triển khai các hạng mục quy hoạch cấp nước vùng ĐBSCL để giải quyết nhu cầu cấp thiết của tỉnh; xem xét, bổ sung quy hoạch hệ thống cấp nước thô liên vùng.