(TN&MT) - Nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ khí sinh học và giám sát lượng phát thải CO2 hàng năm trong lĩnh vực chăn nuôi ở nước ta, Dự án hỗ trợ nông nghiệp các-bon thấp (LCASP) đang xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý các công trình khí sinh học, phục vụ hoạt động bán tín chỉ các bon của ngành nông nghiệp.Chất thải lỏng - nguyên nhân ô nhiễm chính
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, cả nước hiện có khoảng 12 triệu hộ gia đình có hoạt động chăn nuôi và 23.500 trang trại chăn nuôi tập trung. Kéo theo là khối lượng nguồn thải khổng lồ khoảng 84,5 triệu tấn/năm, trong đó, chỉ khoảng 20% được sử dụng hiệu quả (làm khí sinh học, ủ phân, nuôi trùn, cho cá ăn…), còn lại 80% bị lãng phí và phần lớn thải bỏ ra môi trường gây ô nhiễm.
Nghiên cứu của dự án LCASP chỉ ra nguyên nhân chính là do các trang trại chăn nuôi lợn đã sử dụng quá nhiều nước để làm vệ sinh và làm mát vật nuôi, dẫn đến chất thải lỏng không thể thu gom, chỉ còn cách xả thải trực tiếp ra nguồn nước hoặc gián tiếp thông qua các hầm biogas.
Xuất phát từ tực tế này, dự án LCASP đã hướng dẫn các hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp tại 10 tỉnh, thành trên cả nước thử nghiệm mô hình xử lý toàn diện chất thải chăn nuôi quy mô trang trại. Theo đó, áp dụng quy trình chăn nuôi giúp giảm bớt lượng nước, lắp đặt hệ thống máy tách chất thải rắn và nước thải, xây lắp bể ủ phân compost tại các trang trại chăn nuôi để sử dụng chất thải rắn sản xuất nguyên liệu phân bón hữu cơ… Nước thải chăn nuôi, nước thải sau bioga được đưa đến bể lắng và bể hòa loãng để sử dụng bơm tưới vườn hoặc sử dụng ống dẫn tưới các trang trại trồng trọt ở khu vực lân cận.
Trong 2 năm qua, người dân đã nhận hỗ trợ tài chính để xây dựng công trình khí sinh học và các hạng mục môi trường.Tính đến hết tháng 2/2018, có gần 52.000 công trình KSH quy mô nhỏ (dưới 15 m3), 23 công trình quy mô vừa và 2 công trình quy mô lớn (hơn 50 m3) được xây lắp. Quá trình triển khai, dự án đã tăng mức hỗ trợ từ 3 triệu đồng lên 5 triệu đồng với công trình quy mô nhỏ, từ 10 triệu đồng lên 50 triệu đồng với công trình quy mô vừa và bỏ hỗ trợ các dự án quy mô lớn.
Lý giải về điều này, ông Nguyễn Thế Hinh - Giám đốc dự án LCASP cho biết, hạn chế cơ bản của các hầm biogas là nếu xây hầm biogas có dung tích vừa đủ so với nhu cầu sử dụng khí gas, sẽ bị quá tải khi tăng quy mô chăn nuôi và ngược lại, hầm dung tích lớn sẽ bị thừa khí gas gây ô nhiễm không khí. Thực tế, nhiều nơi có hầm biogas vẫn không đáp ứng được quy chuẩn về chất thải. Bởi vậy, chúng tôi khuyến khích các hộ dân và chủ trang trại xây lắp hầm biogas có dung tích vừa đủ với nhu cầu sử dụng khí gas (để đun nấu, phát điện, sấy phân...).
Qua phản ánh từ địa phương, các công nghệ mới bước đầu đã cho hiệu quả rất khả quan. Một số hộ dân có quy mô trên 2.000 con lợn mỗi lần chạy máy tách chất thải thu được khoảng 1 tấn phân ép, có giá bán từ 800.000 đồng - 1.000.000 đồng. Các mô hình sử dụng nước xả sau bioga để tưới cho cây trồng cũng giúp tiết kiệm được 70 - 100% tiền mua phân bón hóa học. Cây trồng sinh trưởng tốt, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và cải tạo đất.
Theo dõi phát thải từ cơ sở
Đến nay, đã có khoảng 41.000 công trình khí sinh học (KSH) của dự án được cập nhật vào phần mềm cơ sở dữ liệu quản lý các công trình khí sinh học thuộc Chương trình Khí sinh học quốc gia, bao gồm cả tên chủ hộ sử dụng. Qua đó, Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) có thể giám sát cơ sở dữ liệu về lượng phát thải khí nhà kính hằng năm từ Trung ương đến địa phương và bán tín chỉ các bon của ngành nông nghiệp.
Ông Hinh cũng cho biết, hiện nay, các Ban Quản lý dự án LCASP ở 10 tỉnh đang tiếp tục cập nhật dữ liệu, bao gồm cả dữ liệu liệu về tiềm năng và hiện trạng sử dụng chất thải nông nghiệp để phục vụ công tác lập quy hoạch quản lý và sử dụng chất thải nông nghiệp, nhằm giảm ô nhiễm môi trường và nâng cao thu nhập cho nông dân.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và triển khai các mô hình thử nghiệm, dự án LCASP kiến nghị Chính phủ cần có chính sách khuyến khích các trang trại chăn nuôi lớn áp dụng các giải pháp đồng bộ và toàn diện trong quan lý chất thải chăn nuôi. Bên cạnh đó, nghiên cứu hình thành chuỗi giá trị sản xuất phân bón hữu cơ từ chất thải chăn nuôi và hoàn thiện công nghệ tái sử dụng nước thải chăn nuôi.
Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á (đơn vị tài trợ dự án), mặc dù, dự án đã góp phẩn cải thiện môi trường nhưng nước thải sau biogas được xử lý thông qua bể lắng và làm phân bón chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc gia QCVN 62-MT:2016/BTNMT về chất lượng nước thải chăn nuôi và QCVN 08-MT-2015/BTNMT về chất lượng nước mặt. Việc tiếp tục phải xử lý thêm nước thải sau biogas có thể tạo ra gánh nặng cho ngành chăn nuôi, nhất là cho các hộ nuôi lợn, và làm lãng phí nguồn phân bón giá trị cao. Thành công ban đầu của việc triển khai các mô hình đã đưa được thông điệp đề xuất sửa đổi các tiêu chuẩn quốc gia nói trên đến Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội trong cuộc họp hồi tháng 3. Dự kiến, Ủy ban sẽ tổ chức hội thảo tham vấn Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT và các bộ liên quan khác để xem xét lại tiêu chuẩn quốc gia về quản lý chất thải chăn nuôi.
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, cả nước hiện có khoảng 12 triệu hộ gia đình có hoạt động chăn nuôi và 23.500 trang trại chăn nuôi tập trung. Kéo theo là khối lượng nguồn thải khổng lồ khoảng 84,5 triệu tấn/năm, trong đó, chỉ khoảng 20% được sử dụng hiệu quả (làm khí sinh học, ủ phân, nuôi trùn, cho cá ăn…), còn lại 80% bị lãng phí và phần lớn thải bỏ ra môi trường gây ô nhiễm.
Nghiên cứu của dự án LCASP chỉ ra nguyên nhân chính là do các trang trại chăn nuôi lợn đã sử dụng quá nhiều nước để làm vệ sinh và làm mát vật nuôi, dẫn đến chất thải lỏng không thể thu gom, chỉ còn cách xả thải trực tiếp ra nguồn nước hoặc gián tiếp thông qua các hầm biogas.
Xuất phát từ tực tế này, dự án LCASP đã hướng dẫn các hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp tại 10 tỉnh, thành trên cả nước thử nghiệm mô hình xử lý toàn diện chất thải chăn nuôi quy mô trang trại. Theo đó, áp dụng quy trình chăn nuôi giúp giảm bớt lượng nước, lắp đặt hệ thống máy tách chất thải rắn và nước thải, xây lắp bể ủ phân compost tại các trang trại chăn nuôi để sử dụng chất thải rắn sản xuất nguyên liệu phân bón hữu cơ… Nước thải chăn nuôi, nước thải sau bioga được đưa đến bể lắng và bể hòa loãng để sử dụng bơm tưới vườn hoặc sử dụng ống dẫn tưới các trang trại trồng trọt ở khu vực lân cận.
Trong 2 năm qua, người dân đã nhận hỗ trợ tài chính để xây dựng công trình khí sinh học và các hạng mục môi trường.Tính đến hết tháng 2/2018, có gần 52.000 công trình KSH quy mô nhỏ (dưới 15 m3), 23 công trình quy mô vừa và 2 công trình quy mô lớn (hơn 50 m3) được xây lắp. Quá trình triển khai, dự án đã tăng mức hỗ trợ từ 3 triệu đồng lên 5 triệu đồng với công trình quy mô nhỏ, từ 10 triệu đồng lên 50 triệu đồng với công trình quy mô vừa và bỏ hỗ trợ các dự án quy mô lớn.
Lý giải về điều này, ông Nguyễn Thế Hinh - Giám đốc dự án LCASP cho biết, hạn chế cơ bản của các hầm biogas là nếu xây hầm biogas có dung tích vừa đủ so với nhu cầu sử dụng khí gas, sẽ bị quá tải khi tăng quy mô chăn nuôi và ngược lại, hầm dung tích lớn sẽ bị thừa khí gas gây ô nhiễm không khí. Thực tế, nhiều nơi có hầm biogas vẫn không đáp ứng được quy chuẩn về chất thải. Bởi vậy, chúng tôi khuyến khích các hộ dân và chủ trang trại xây lắp hầm biogas có dung tích vừa đủ với nhu cầu sử dụng khí gas (để đun nấu, phát điện, sấy phân...).
Qua phản ánh từ địa phương, các công nghệ mới bước đầu đã cho hiệu quả rất khả quan. Một số hộ dân có quy mô trên 2.000 con lợn mỗi lần chạy máy tách chất thải thu được khoảng 1 tấn phân ép, có giá bán từ 800.000 đồng - 1.000.000 đồng. Các mô hình sử dụng nước xả sau bioga để tưới cho cây trồng cũng giúp tiết kiệm được 70 - 100% tiền mua phân bón hóa học. Cây trồng sinh trưởng tốt, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và cải tạo đất.
Theo dõi phát thải từ cơ sở
Đến nay, đã có khoảng 41.000 công trình khí sinh học (KSH) của dự án được cập nhật vào phần mềm cơ sở dữ liệu quản lý các công trình khí sinh học thuộc Chương trình Khí sinh học quốc gia, bao gồm cả tên chủ hộ sử dụng. Qua đó, Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) có thể giám sát cơ sở dữ liệu về lượng phát thải khí nhà kính hằng năm từ Trung ương đến địa phương và bán tín chỉ các bon của ngành nông nghiệp.
Ông Hinh cũng cho biết, hiện nay, các Ban Quản lý dự án LCASP ở 10 tỉnh đang tiếp tục cập nhật dữ liệu, bao gồm cả dữ liệu liệu về tiềm năng và hiện trạng sử dụng chất thải nông nghiệp để phục vụ công tác lập quy hoạch quản lý và sử dụng chất thải nông nghiệp, nhằm giảm ô nhiễm môi trường và nâng cao thu nhập cho nông dân.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và triển khai các mô hình thử nghiệm, dự án LCASP kiến nghị Chính phủ cần có chính sách khuyến khích các trang trại chăn nuôi lớn áp dụng các giải pháp đồng bộ và toàn diện trong quan lý chất thải chăn nuôi. Bên cạnh đó, nghiên cứu hình thành chuỗi giá trị sản xuất phân bón hữu cơ từ chất thải chăn nuôi và hoàn thiện công nghệ tái sử dụng nước thải chăn nuôi.
Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á (đơn vị tài trợ dự án), mặc dù, dự án đã góp phẩn cải thiện môi trường nhưng nước thải sau biogas được xử lý thông qua bể lắng và làm phân bón chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc gia QCVN 62-MT:2016/BTNMT về chất lượng nước thải chăn nuôi và QCVN 08-MT-2015/BTNMT về chất lượng nước mặt. Việc tiếp tục phải xử lý thêm nước thải sau biogas có thể tạo ra gánh nặng cho ngành chăn nuôi, nhất là cho các hộ nuôi lợn, và làm lãng phí nguồn phân bón giá trị cao. Thành công ban đầu của việc triển khai các mô hình đã đưa được thông điệp đề xuất sửa đổi các tiêu chuẩn quốc gia nói trên đến Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội trong cuộc họp hồi tháng 3. Dự kiến, Ủy ban sẽ tổ chức hội thảo tham vấn Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT và các bộ liên quan khác để xem xét lại tiêu chuẩn quốc gia về quản lý chất thải chăn nuôi.