Thay thế sản xuất lúa truyền thống
Từ năm 2018 đến 2021, với nguồn tài trợ từ Quỹ Coca Cola, Liên minh bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế Việt Nam (IUCN) đã triển khai Dự án mô hình sinh kế dựa vào mùa nước nổi tại 3 tỉnh vùng thượng nguồn Đồng Bằng Sông Cửu Long gồm An Giang, Đồng Tháp và Long An. Các mô hình sinh kế dựa vào mùa nước nổi bao gồm du lịch sinh thái sen, mô hình kết hợp cá - sen, lúa mùa nổi, nuôi cá mùa lũ và các loại cây rau nổi khác nhau (ấu, hẹ nước…).
Mục tiêu của Dự án là trình diễn các mô hình sinh kế dựa vào mùa nước nổi trên diện tích 450ha, bảo tồn và khôi phục 6,7 triệu m3 trong tổng lượng trữ lũ. Kết quả thực tế cho thấy, Dự án đã được thực hiện trên diện tích 470ha, góp phần bảo tồn và khôi phục 8,6 triệu m3 nước lũ. Để có được kết quả này, Dự án đã thực hiện các hoạt động đào tạo cho nông dân xây dựng và thực hiện các mô hình sinh kế dựa vào mùa nước nổi ít rủi ro nhưng đem lại lợi nhuận cả bên ngoài và bên trong các đê bao. Trung bình, người nông dân có thể kiếm được lợi nhuận cao hơn khoảng 25 - 150% từ các mô hình sinh kế dựa vào mùa nước nổi.
Dự án mô hình sinh kế dựa vào mùa nước nổi là một bước ngoặt, góp phần cung cấp cho các đối tác và cộng đồng địa phương cơ hội và kinh nghiệm trực tiếp để thử nghiệm các mô hình khác nhau. Các mô hình nói trên đã chứng minh giải pháp có thể thay thế cho trồng lúa thâm canh mà vẫn đem lại lợi nhuận. Ngoài ra các mô hình còn có khả năng nhân rộng mà không cần đầu tư tốn kém vào cơ sở hạ tầng như đê bao. Điều này hỗ trợ đa dạng hóa nông nghiệp thông qua sản xuất các sản phẩm đa dạng đáp ứng nhu cầu thị trường, thích ứng với các điều kiện khí hậu như lũ lụt và hạn hán, đem lại lợi ích đáng kể về hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Mô hình nuôi tôm càng xanh xen lúa cho năng suất, chất lượng cao. Ảnh: MH |
Nhiều mô hình hay
Dự án đã triển khai mô hình trữ nước thông qua các mô hình tạo sinh kế cho người dân vùng nước lũ bằng cách chuyển đổi cơ cấu cây trồng, giảm số vụ đất trồng lúa 2 - 3 vụ/năm sang trồng 1 vụ lúa kết hợp trồng sen, lúa mùa nổi. Qua đó có thể kết hợp thu cá tự nhiên và phát triển du lịch dựa vào mùa nước lũ, giúp cải thiện thu nhập cho người dân và tăng cường trữ nước thích ứng với biến đổi khí hậu, hạn hán và xâm nhập mặn.
Dự án đã được thực hiện tại 15 điểm, tổ chức 16 khóa tập huấn và đào tạo cho hơn 1.000 nông dân tại 3 tỉnh của Dự án. Dự án đã góp phần hỗ trợ thực hiện Nghị Quyết 120 của chính phủ Việt Nam thông qua việc trình diễn các mô hình thực tế thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo tồn và khôi phục chức năng hệ sinh thái đồng lũ vùng Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên nhằm đối phó với tình trạng khô hạn và lũ lụt.
Với sự hợp tác từ thành viên của IUCN là ECO-ECO2, Dự án đã giới thiệu kiến thức mới cho phụ nữ trong vùng về sản xuất sợi tơ có giá trị cao từ cọng sen vốn trước đây không có giá trị kinh tế. Đây là nguồn nguyên liệu quý trong sản xuất vải cao cấp để tăng thu nhập của họ trong tương lai. Ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp đầy tiềm năng này vẫn còn trong giai đoạn sơ khai và cần được hỗ trợ để phát triển hơn nữa.
Nhiều mô hình thí điểm sinh kế dựa vào mùa nước nổi đã chứng minh tính bền vững, hiệu quả và có tiềm năng nhân rộng, từ đó đã nhận được sự hỗ trợ tích cực từ các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính quyền địa phương.
Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, các mô hình còn góp phần hỗ trợ chiến lược bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, tăng khả năng trữ nước ngọt, khôi phục và bảo tồn các loài thủy sinh cho vùng đồng bằng. Ngoài ra, lượng phù sa tích tụ trong đồng ruộng cũng giúp tăng độ phì nhiêu của đất, làm giảm nhu cầu phân bón cho cây trồng trong mùa khô, giảm dịch bệnh hại cây trồng, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tăng các loài thủy sinh tự nhiên, cải thiện đa dạng sinh học và hệ sinh thái canh tác nông nghiệp.