Chú trọng nguồn nước phục vụ nhu cầu sản xuất
Chia sẻ với phóng viên, ông Nguyễn Tân Thuấn - Phó Giám đốc Sở TN&MT Long An cho biết: Hiện nay, nguồn TNN trên địa bàn tỉnh đứng trước nhiều nguy cơ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi BĐKH. Tình trạng nước ngầm ngày càng khan hiếm, cạn kiệt; trong khi đó, nguồn nước mặt giảm mạnh, một số vùng bị mặn hóa do tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn gây ra; nguồn nước trên các sông, rạch cũng chịu nhiều tác động gây ô nhiễm.
Theo ông Nguyễn Tân Thuấn, để bảo vệ TNN, Long An đã và đang tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả TNN, trong đó đặc biệt chú trọng đến nguồn nước phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt cho người dân địa phương.
Cụ thể, tỉnh đã ban hành các văn bản với mục tiêu huy động mọi nguồn lực thực hiện quản lý khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước dưới đất có hiệu quả nhất, vừa bảo đảm việc khai thác nước dưới đất hài hòa, hợp lý, đáp ứng mọi yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, vừa bảo vệ, dự trữ nước dưới đất một cách bền vững, an toàn, vừa phục vụ việc khai thác, sử dụng lâu dài tại các địa phương trong tỉnh.
Đồng thời, quyết định về việc phê duyệt danh mục vùng cấm, hạn chế, khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất và các bản đồ phân vùng khai thác. Theo quy định, không cấp phép đối với khu vực đã có đường ống cấp nước tập trung có khả năng cung cấp nước ổn định về số lượng, chất lượng cho hoạt động sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân.
Từ đó, những năm qua, tỉnh Long An đã xây dựng, triển khai kế hoạch yêu cầu trám lấp, đóng bít các giếng khoan khai thác nằm trong các khu, cụm công nghiệp đã có đường ống cấp nước mặt. Đến nay, có 368 giếng khai thác đã được trám lấp, đóng bít, với lưu lượng khoảng 53.100 m3/ngày đêm.
Ngoài ra, Long An cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn nước mặt. Qua đó, có nhiều công trình, dự án sử dụng nước mặt được đầu tư, đưa vào hoạt động. Những dự án này không chỉ phát huy thế mạnh nguồn nước mặt trong việc cấp nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất mà còn góp phần thiết thực bảo vệ nguồn nước ngầm trên địa bàn tỉnh.
Chú trọng dự báo thời tiết các vùng nông nghiệp
Cũng theo ông Nguyễn Tân Thuấn, Long An có 2 dòng sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây với trữ lượng nước ngọt lớn, tuy nhiên, trước tình trạng BĐKH, xâm nhập mặn, tỉnh phải chịu cảnh thiếu nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Cụ thể, mùa khô năm 2016, mặn xâm nhập đến huyện Đức Hòa, cách cửa sông Soài Rạp khoảng 100km; đầu năm 2020, mức độ mặn xâm nhập qua 2 con sông Vàm Cỏ còn nghiêm trọng hơn, đe dọa một phần hạ nguồn vùng Đồng Tháp Mười; khi đó, các huyện vùng hạ du như Cần Đước, Cần Giuộc, Tân Trụ,... nhiễm mặn rộng khắp, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt, thậm chí có nhiều nơi, diện tích trồng trọt gần như mất trắng.
Từ thực tế đó, để phòng ngừa, ứng phó với tình hình xâm nhập mặn nhằm giảm thiểu thiệt hại do thiên tai ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh, Long An thường xuyên tổ chức kiểm tra, đo đạc chặt chẽ tình hình chất lượng nước trên các tuyến sông: Vàm Cỏ, Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Rạch Cát, sông Tra.
Bên cạnh đó, triển khai các giải pháp vận hành hệ thống thủy lợi, đầu tư xây dựng các cống, đập ngăn mặn trên tuyến Quốc lộ 62, bảo vệ an toàn diện tích sản xuất nông nghiệp của 2 tỉnh Long An và Tiền Giang; triển khai dự án xây dựng kè ven sông Vàm Cỏ Tây, đoạn từ rạch Châu Phê đến cầu mới đường tránh TP. Tân An, đảm bảo chống ngập úng do triều cường, chống xâm nhập mặn mùa khô.
Đồng thời, tập trung đầu tư các dự án thuộc Chương trình mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư nhằm kết hợp phát triển giao thông thủy dọc kênh với quy mô đường giao thông, tiêu úng, thoát lũ, ngăn chặn tình trạng sạt lở bờ sông kết hợp làm đê ngăn triều, ngăn lũ, chỉnh trang cảnh quan khu vực ven sông.
Ngoài ra, tỉnh Long An đã triển khai kế hoạch cấp nước an toàn khu vực nông thôn giai đoạn 2021 - 2025, nhằm bảo đảm duy trì áp lực cấp nước, cung cấp ổn định, đủ lượng nước và bảo đảm chất lượng nước cấp theo quy chuẩn quy định, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, giảm thiểu các bệnh liên quan đến nước, phòng ngừa dịch bệnh và phát triển kinh tế - xã hội; giảm tỷ lệ thất thoát, tiết kiệm TNN và bảo vệ môi trường.
Đặc biệt, tỉnh đã tăng cường bản tin dự báo nông nghiệp, phân vùng dự báo, chú trọng yếu tố thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tại khu vực dễ tổn thương, có sức chống chịu kém; đánh giá cây trồng vật nuôi phù hợp… song song với quản lý chặt, sử dụng hiệu quả, đảm bảo an ninh nguồn nước, chủ động đảm bảo nước cho sinh hoạt và sản xuất trước tình hình thời tiết và ảnh hưởng của BĐKH.