Trong quý I/2023, EVN đã đảm bảo cung cấp điện an toàn, liên tục, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống điện đáp ứng yêu cầu phụ tải và có dự phòng.
Cụ thể, trong tháng 3/2023, sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống đạt 23,22 tỷ kWh, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính chung quý I/2023, sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống đạt 61,83 tỷ kWh, giảm 1,6% so với cùng kỳ. Trong đó, thủy điện đạt 15,38 tỷ kWh, chiếm 24,9%; Nhiệt điện than huy động đạt 28,03 tỷ kWh, chiếm 45,3%; Tua bin khí đạt 7,14 tỷ kWh, chiếm 11,6%; Năng lượng tái tạo đạt 10,22 tỷ kWh, chiếm 16,5% (trong đó điện mặt trời đạt 6,45 tỷ kWh, điện gió đạt 3,47 tỷ kWh); Điện nhập khẩu đạt 953 triệu kWh, chiếm 1,5%.
Sản lượng điện truyền tải tháng 3/2023 đạt 17,91 tỷ kWh. Lũy kế quý 1/2023, sản lượng điện truyền tải đạt 48,27 tỷ kWh, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong quý 1/2023, EVN cũng đã vận hành tối đa các Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, Thác Bà và Tuyên Quang để tạo điều kiện thuận lợi cho các công trình thủy lợi vận hành lấy nước, đồng thời bảo đảm cung cấp đủ điện cho các trạm bơm hoạt động phục vụ gieo cấy lúa vụ Đông Xuân 2022 - 2023 cho các tỉnh Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ. Tính cả 2 đợt lấy nước đổ ải (12 ngày), tổng lượng nước xả từ các hồ thủy điện là 3,62 tỷ m3 - tiết kiệm được 1,14 tỷ m3 nước so với kế hoạch.
Việc tổ chức xây dựng lịch lấy nước được thực hiện trên cơ sở tính toán cụ thể, bảo đảm nhu cầu, đáp ứng thực tiễn cao, góp phần tiết kiệm nước từ các hồ chứa thủy điện phục vụ cung cấp điện mùa khô năm 2023.
So với các năm gần đây, tổng lượng xả năm 2023 thấp hơn 0,62 tỷ m3 so với năm 2022, thấp hơn 1,52 tỷ m3 so với năm 2021, chỉ cao hơn 0,94 tỷ m3 so với năm 2020 là năm có mưa lớn vào Tết Nguyên Đán.
Về công tác đầu tư xây dựng, EVN đã đôn đốc các đơn vị xử lý vướng mắc, thi công bám sát kế hoạch các dự án nguồn điện; đặc biệt là các dự án thủy điện Hòa Bình mở rộng, Ialy mở rộng, nhiệt điện Quảng Trạch 1. Đồng thời, đối với lưới điện, đã khởi công 12 công trình và hoàn thành đóng điện, đưa vào vận hành 26 công trình lưới điện từ 110 kV đến 500 kV.
Quý II hàng năm là thời gian cao điểm của mùa khô và là thời điểm căng thẳng nhất trong năm về đảm bảo cung cấp điện toàn hệ thống, EVN đề ra mục tiêu đảm bảo vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện và thị trường điện, đáp ứng nhu cầu điện trong các tháng mùa khô quý II/2023.
Dự kiến, tháng 4/2023, sản lượng tiêu thụ điện bình quân ngày toàn hệ thống ở mức 745 triệu kWh/ngày.
Mục tiêu vận hành hệ thống là tiếp tục đảm bảo sản xuất, cung ứng điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt người dân; đặc biệt là đảm bảo điện phục vụ kỳ nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương; dịp lễ 30/4 - 01/5.
Đối với thủy điện, tiết kiệm triệt để thủy điện đa mục tiêu, nhất là các thủy điện ở miền Bắc để giữ nước, đảm bảo cung cấp điện lâu dài đến hết mùa khô. Đồng thời huy động cao các nhà máy nhiệt điện than, tuabin khí để giữ nước các hồ thủy điện. Các nhà máy nhiệt điện than nhập khẩu huy động theo nhu cầu hệ thống.
Về đầu tư xây dựng, trong tháng 4/2023, EVN tiếp tục đôn đốc các đơn vị tập trung hoàn thiện các hồ sơ, thủ tục, giải quyết vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án.
Ngoài ra, để giảm bớt những khó khăn trong vận hành hệ thống điện trong các tháng mùa khô năm 2023, EVN tiếp tục khuyến cáo người dân, các cơ quan công sở và nơi sản xuất cần chú ý sử dụng điện an toàn, tiết kiệm…
Để giảm thiểu tai nạn điện trong dân do vi phạm hành lang an toàn hành lang lưới điện, EVN và các đơn vị thành viên kiến nghị Sở Công Thương các tỉnh/thành phố tăng cường công tác kiểm tra, xử phạt vi phạm đối với các hành vi vi phạm hành lang an toàn lưới điện và phối hợp cùng các đơn vị Điện lực tăng cường công tác tuyên truyền đến các tổ chức, người dân.