Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hỗ trợ tối đa cho quản lý Nhà nước
Theo kết quả đánh giá về thực hiện Quy hoạch, Kế hoạch sử dụng đất 2011 - 2020 cho thấy, hàng năm, quỹ đất được phân bổ và chuyển dịch cơ cấu sử dụng để đáp ứng kịp thời cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Ví dụ như, những năm qua, quỹ đất nông nghiệp đã đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ và phát triển rừng. Quỹ đất dành cho công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị được mở rộng, từng bước đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu đô thị hóa. Diện tích đất chưa sử dụng cơ bản đã được đưa vào sử dụng.
Quy hoạch quỹ đất đáp ứng tốt cho phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế; thương mại - dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới tiếp tục được mở rộng (năm 2020, đất dành cho phát triển các khu công nghiệp tăng thêm 18,81 nghìn ha, đất đô thị tăng 510,92 nghìn ha, đất phát triển hạ tầng tăng 176,63 nghìn ha... so với năm 2010), đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Đặc biệt, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là căn cứ để giao đất, giao rừng, đã ngăn chặn được tình trạng suy thoái rừng, khôi phục và bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng rừng kinh tế; cải tạo và bảo vệ đất, giảm suy thoái đất; bảo tồn đa dạng sinh học; bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
|
Cần dự báo nhu cầu sát thực tế
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vẫn còn một số tồn tại, bất cập, cần phải xem xét kỹ để xây dựng Dự thảo cho Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 loại bỏ được những hạn chế đã từng xảy ra tại giai đoạn trước như: Do tình hình kinh tế - xã hội những năm qua của nước ta nói chung và của từng địa phương nói riêng gặp nhiều khó khăn, tác động lớn đến việc thực hiện quy hoạch và thu hút đầu tư, nguồn vốn để thực hiện các công trình, dự án; một số công trình, dự án cấp quốc gia sử dụng vốn từ ngân sách Trung ương chưa triển khai hoặc triển khai chưa đúng tiến độ (như Sân bay quốc tế Long Thành, một số tuyến đường cao tốc Bắc - Nam, đường vành đai ven biển, đường vành đai vùng kinh tế trọng điểm, các trường đại học,...) nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Đồng thời, việc phát triển các khu công nghiệp trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại, bất cập như: Việc quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp còn thiếu sự thống nhất trên quy mô liên vùng, liên tỉnh; chưa xem xét đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kinh tế - xã hội; việc bố trí đất đai cho các khu công nghiệp nhiều nơi còn chưa hợp lý; việc phát triển nhanh các khu công nghiệp ở một số địa phương trong thời gian qua đã tạo sức ép không nhỏ đối với môi trường, hạ tầng xã hội phục vụ công nhân khu công nghiệp.
Việc đánh giá, dự báo nhu cầu sử dụng đất của một số công trình, dự án trong kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa sát với thực tiễn trong nền kinh tế của đất nước đang phát triển; việc xác định chỉ tiêu, quy mô diện tích một số công trình, dự án trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn cao so với khả năng thực hiện của địa phương do thiếu những luận cứ mang tính khoa học vì vậy chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn hạn chế, tính khả thi chưa cao.
Thiếu các giải pháp có tính khả thi để thực hiện quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là không cân đối đủ nguồn vốn đầu tư do nhu cầu vốn đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật là rất lớn trong khi ngân sách của các địa phương có hạn; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mất nhiều thời gian nên ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thực hiện dự án đã được phê duyệt trong quy hoạch.
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa được toàn diện và thực sự nghiêm túc, đặc biệt là việc quản lý, sử dụng đất theo các chỉ tiêu quy hoạch đã được phê duyệt. Công tác giám sát mới chỉ chủ yếu thông qua báo cáo của các cơ quan chuyên môn; nguồn lực, các phương tiện kỹ thuật, công cụ phục vụ cho công tác giám sát còn bất cập, lạc hậu, chưa ứng dụng rộng rãi công nghệ cao trong việc giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm đảm bảo tính khách quan.
Nguồn thu từ đất (tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp) cho ngân sách đã tăng đáng kể qua các năm, cụ thể: năm 2013 là 63.681 tỷ đồng; năm 2014 là 69.580 tỷ đồng; năm 2015 là 102.045 tỷ đồng; năm 2016 là 145.801 tỷ đồng; năm 2017 là 185.957 tỷ đồng; năm 2018 là 217.699 tỷ đồng; năm 2019 là 232.689 tỷ đồng; năm 2020 là 254.854 tỷ đồng, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người sử dụng đất, quyền lợi của Nhà nước, chủ đầu tư và đảm bảo ổn định xã hội. Có thể thấy nguồn thu từ đất, chiếm 12% - 15% thu ngân sách nội địa hàng năm.