Vơi dần mùa rùa đẻ trứng

Phương Anh| 22/10/2019 15:41

(TN&MT) - Số lượng rùa lên đẻ trứng tại Việt Nam đã giảm từ 10.000 cá thể mỗi năm (những năm 1980) xuống còn 450 cá thể (năm 2019).

Con số báo động này được Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế - IUCN cảnh báo tại Hội thảo quốc gia về “Bảo tồn rùa biển tại Việt Nam” do cơ quan này phối hợp cùng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) tổ chức hôm 19/10 tại TP. Đà Nẵng.

Tỷ lệ tử vong cao

Tại Việt Nam, rùa biển mới chỉ được đưa vào trong danh mục các loài cấm khai thác từ những năm 90 của thế kỷ trước và hiện tại việc bảo vệ rùa biển ở nhiều địa phương còn nhiều hạn chế. Điều này góp phần làm cho quần thể rùa biển tại Việt Nam bị thu hẹp cả về số loài cũng như số lượng cá thể trong từng loài. 

Rùa biển có tuổi thọ cao (từ 60 - 100 năm) và vòng đời rất phức tạp, mỗi giai đoạn lại yêu cầu một sinh cảnh sống khác nhau như bãi cát, thảm cỏ biển, rạn san hô, rạn đá, vùng nước sâu. Tuy số lượng ổ trứng và số trứng trong một ổ cao nhưng, tỷ lệ tử vong ở giai đoạn con non rất lớn (lên đến 60%), nên ước tính chỉ 1/1.000 con non có thể sống sót đến giai đoạn trưởng thành. Do đó, nếu rùa trưởng thành bị tận diệt và trứng của chúng bị lấy hết, quần thể đó sẽ bị tiêu diệt sau một vài thập kỷ.

Cá thể rùa biển được các chiến sĩ Đồn Biên phòng Vinh Hiền (Thừa Thiên - Huế) thả về môi trường tự nhiên hôm 13/9. Ảnh: Bắc Thành

Trước những năm 1975, rùa biển sinh sản tại 13 trong số 27 tỉnh ven biển. Đơn cử như loài rùa da đã bị suy giảm nghiêm trọng, chỉ còn khoảng 1 - 2 con đẻ trứng mỗi năm tại khu vực miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, các khu vực khác hầu như không có. Các địa phương hiện còn ghi nhận loài rùa da sinh sản là Khánh Hòa (tháng 6/2013) và Quảng Trị (tháng 6/2014) .

Nguyên nhân là do đánh bắt trực tiếp bằng các phương tiện đánh bắt như câu kiều, lưới quàng, nghề lặn, bắt rùa mẹ khi lên đẻ, thu nhặt trứng rùa biển. Đáng chú ý là các hoạt động phát triển kinh tế như nuôi tôm trên cát, khai thác cát, phát triển du lịch, rác thải và phát triển cơ sở hạ tầng tại vùng ven biển gây nên tác động tiêu cực đến nơi sinh sản của rùa biển.

Chưa kể, rác thải nhựa đại dương cũng là một trong những nguyên nhân tác động tiêu cực đến sức khỏe các sinh vật biển. Rùa biển có nguy cơ đáng kể ăn phải mảnh vụn nhựa ở tất cả các giai đoạn trong vòng đời của chúng và hậu quả có thể gây tử vong.

Quy định vẫn chồng chéo

Hiện, Việt Nam đã xây dựng cơ sở dữ liệu về rùa biển; thiết lập bản đồ vùng rùa biển làm tổ đẻ trứng; cứu hộ, chăm sóc rùa con; theo dõi vùng kiếm ăn, sinh cư của rùa biển...

Công tác bảo vệ rùa biển được quy định trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia là CITES (Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng), Biên bản thỏa thuận về bảo tồn và bảo vệ rùa biển tại khu vực Đông Nam Á tháng 9/1999, Biên bản thỏa thuận về bảo tồn và quản lý rùa biển và nơi sinh sống của chúng tại khu vực Ấn Độ Dương và Đông Nam Á tháng 7/2001.

Cùng với đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định nghiêm cấm khai thác, kinh doanh các loài thực, động vật quý, hiếm trong danh mục quy định của Chính phủ, một số điều khoản thuộc Luật Đa dạng sinh học 2008 và Nghị định số 31/2010/NĐ-CP ngày 29/3/2010 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản. Như vậy, tất cả các hành vi khai thác, vận chuyển, tàng trữ, chế biến rùa biển và các sản phẩm từ rùa biển đều vi phạm pháp luật bất kể nó được đánh bắt từ đâu.

Quy định là vậy, nhưng theo các chuyên gia, sự phối hợp liên ngành, phân chia trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành và một số quy định của pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học còn chồng chéo. Đây được xem là nút thắt trong quản lý và bảo tồn loài sinh vật này.

Nghiên cứu của Viện Tài nguyên và Môi trường biển (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho thấy, hiện nay, các loài rùa biển đang suy giảm nghiêm trọng, trong đó, Vích suy giảm 75%, Đồi mồi và Đồi mồi dứa suy giảm 95%, Rùa da suy giảm 99%.

 Theo quy định của Luật Đa dạng sinh học 2008, Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về ĐDSH (Khoản 2, Điều 6). Tuy vậy, hiện tại, công tác bảo tồn rùa biển tại Việt Nam chủ yếu do các Ban quản lý Vườn quốc gia, Khu bảo tồn biển và các Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại các địa phương có biển (thuộc Bộ NN&PTNT) thực hiện. Cùng là một đối tượng bảo tồn như các loài rùa biển lại bị chi phối bởi nhiều bộ luật quản lý như Luật Thủy sản, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ môi trường... với nhiều cơ quan thực thi khác nhau đã làm cho trong quá trình thực hiện gặp nhiều trở ngại.

Đã đến lúc cần những hành động mạnh mẽ và quyết liệt trong bảo tồn và phát triển loài rùa biển trước những nguy cơ tuyệt chủng đang hiện hữu.

Theo Báo in
Rùa biển Việt Nam
Copy Link
Rùa biển Việt Nam
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Vơi dần mùa rùa đẻ trứng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO