Ban chủ tọa hội nghị |
Dự án “Chuẩn bị sẵn sàng cho xây dựng thị trường các-bon tại Việt Nam” (gọi tắt là Dự án VN-PMR) được bắt đầu năm 2015 do Ngân hàng Thế giới tài trợ và có sự tham gia của các Bộ: KH&ĐT, Tài chính, Công Thương, Xây dựng. Trong khuôn khổ dự án VNPMR, nhiều nghiên cứu chuyên sâu nhằm đề xuất chính sách, công cụ quản lý nhà nước về thị trường các-bon đã được đề xuất, bao gồm cơ chế tạo tín chỉ, hệ thống giao dịch phát thải (ETS), phí/Thuế các-bon và cơ chế chứng chỉ xanh. Đây cũng là các công cụ định giá các-bon với cách tiếp cận sử dụng các cơ chế thị trường theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Theo đó, các cơ sở phát thải phải chịu trách nhiệm trả chi phí do đã phát thải KNK vào khí quyển.
Phát thải KNK trên đầu người của Việt Nam đã tăng gấp 6 lần
Phát biểu tại Hội nghị, TS Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) cho biết, hiện nay, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, phát thải khí nhà kính trên đầu người của Việt Nam đã tăng gấp 6 lần so với mức đầu những năm 1990. Việt Nam có tổng mức phát thải khoảng 285 triệu tấn CO2 tương đương. Con số này, theo kịch bản phát thải thông thường được Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tính toán sẽ lên tới 927,9 tấn CO2 tương đương vào năm 2030.
Trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật gửi đến Ban thư ký Công ước khung về BĐKH hồi tháng 9 vừa qua, Việt Nam xác định sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải vào năm 2030 bằng nguồn lực trong nước và có thể giảm đến 27% khi có hỗ trợ của quốc tế. Để đạt được mục tiêu này, nguồn lực tài chính cần có lên tới hàng chục tỷ USD. Một trong những phương thức để huy động nguồn lực xã hội một cách minh bạch và linh hoạt là định giá các-bon, bao gồm thuế các-bon, các cơ chế tạo tín chỉ, hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon.
TS Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) phát biểu tại Hội nghị |
Dự án VN-PMR được đặt ra với mục tiêu tăng cường năng lực, xây dựng và phổ biến các chính sách, các công cụ quản lý nhà nước đối với các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA), hình thành công cụ thị trường, thí điểm NAMA tạo tín chỉ các-bon và xây dựng lộ trình tham gia thị trường các-bon trong nước và thế giới. Một số phương án áp dụng công cụ định giá các-bon cho các ngành, lĩnh vực được đề xuất, song song với đánh giá sơ bộ tác động đến KT-XH của Việt Nam được hoàn thành nhằm cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách cân nhắc sử dụng.
Đại diện Bộ Công Thương, bà Lưu Linh Hương cho biết, trong khuôn khổ hợp phần lĩnh vực quản lý chất thải rắn, Bộ Xây dựng đã tính toán hiện trạng phát thải và đưa ra kịch bản phát thải đến năm 2030 cho 4 loại hình công nghệ xử lý, gồm: chôn lấp, ủ phân compots, đốt tiêu hủy, đốt phát điện với tiềm năng giảm khoảng hơn 42 triệu tấn CO2 tđ. Khung tạo tín chỉ các-bon có 2 cách tiếp cận chính. Tiếp cận ngành sẽ cải tiến, đầu tư mới công nghệ xử lý thay thế chôn lấp và tín chỉ do địa phương quyết định, trao cho cơ quan quản lý ở địa phương. Tiếp cận nâng cao theo hướng đầu tư công nghệ tránh phát thải khí CH4, cho phép các dự án đăng ký và tạo tín chỉ để bán, do nhà đầu tư quyết định và tín chỉ trao cho nhà đầu tư.
Đông đảo các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các Bộ, ngành, doanh nghiệp đến tham dự hội nghị |
Thí điểm tín chỉ tiềm năng ở Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương cho thấy, các dự án đốt phát điện đều khả thi. Ở Bình Dương đề xuất áp dụng thêm sản xuất phân compost. Bộ Xây dựng cũng đề xuất lộ trình thực hiện cơ chế tín chỉ với hai giai đoạn. Giai đoạn 1 (2021-2025) sẽ hoàn thiện việc thiết kế khung tín chỉ và tạo điều kiện thuận lợi về mặt phát triển pháp lý, sắp xếp thể chế và nâng cao năng lực. Tiếp tục thí điểm thêm 3-5 thành phố ngoài 3 địa phương trên. Giai đoạn 2 sẽ mở rộng việc thực hiện cơ chế tín chỉ ở quy mô quốc gia.
Đẩy mạnh xây dựng thị trường trong nước
Theo ông Nguyễn Tuấn Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học, giáo dục, TN&MT (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), phân tích chỉ ra rằng, thay vì một nguồn đầu tư duy nhất, một mô hình kết hợp các công cụ huy động tài chính được đánh giá là khả thi nhất. Bộ KH&ĐT khuyến nghị nên lựa chọn định giá các-bon (từ năm 2026) kết hợp nền tảng trái phiếu xanh là hai cơ chế cốt lõi để huy động tài chính tư nhân cho Việt Nam. Cả hai cơ chế đều cho thấy tiềm năng đặc biệt về lực kéo và tăng trưởng ở Việt Nam.
Các cơ chế khác bao gồm các quỹ xanh cấu trúc (cả trong nước và quốc tế), cho vay thương mại như cho vay hợp vốn, mục tiêu năng lượng tái tạo, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kiều hối cũng là những kênh và công cụ phù hợp để tăng cường tài chính tư nhân nhằm đạt được NDC của Việt Nam. Sự thành công của mỗi cơ chế đòi hỏi các phát triển về sự tham gia của khu vực công và tư, các chính sách hỗ trợ và ưu đãi, và quản trị minh bạch.
Đại diện Bộ Xây dựng trình bày tại Hội nghị |
Theo ông Hoàng Văn Tâm, đại diện Bộ Công thương, trong thời gian thực hiện dự án VNPMR ở lĩnh vực sản xuất thép, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẵn sàng thực hiện các hoạt động nhằm tham gia thị trường các-bon tại Việt Nam trong thời gian tới. Đây là tín hiệu đáng mừng và là cơ sở để triển khai các bước xây dựng thị trường trong thời gian tới.
Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định về việc tổ chức và phát triển thị trường các bon tại Việt Nam. Sau khi dự án VNPMR hoàn thành đã đóng góp các nội dung về quy định mục tiêu giảm phát thải quốc gia và ngành, phân bổ mục tiêu giảm nhẹ khí nhà kính cho các ngành kinh tế; kiểm kê khí nhà kính cấp ngành và quốc gia, quy định về các cơ sở và các ngành sẽ tham gia hệ thống ETS; xác định được các tiểu lĩnh vực sẽ tham gia vào hệ thống ETS và tổng lượng phát thải khí nhà kính của các đối tượng tham gia ETS. Dự án cũng đã nâng cao năng lực cho các bên liên quan tham gia ETS trong tương lai, bao gồm năng lực về kiểm kê khí nhà kính và MRV.
Theo ông Lương Quang Huy, Trưởng phòng Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-dôn (Cục Biến đổi khí hậu), để có cơ sở cụ thể hóa việc hình thành thị trường các-bon theo Luật, từ nay đến năm 2025, Bộ TN&MT cùng các Bộ, ngành liên quan sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ việc đánh giá một cách toàn diện tác động đến kinh tế - xã hội – môi trường, cũng như hoạt động của doanh nghiệp; tìm hiểu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như thông lệ quốc tế. Những việc làm này giúp đảm bảo Việt Nam sẽ có một hệ thống tương đối toàn diện, bắt đầu từ các hoạt động thí điểm, tiến tới vận hành đầy đủ thị trường các-bon và kết nối với thị trường thế giới trong tương lai.
Quang cảnh hội nghị |
Hiện tại, dự thảo Nghị định quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-dôn và thị trường các-bon nhằm hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) 2020 đã cơ bản quy định được trách nhiệm của các Bộ, ngành về kiểm kê, hệ thống báo cáo, thẩm tra (MRV), thiết lập hệ thống giao dịch phát thải ETS nội địa trong đó quy định rõ về trách nhiệm, quyền lợi (dưới hình thức một số ưu đãi về thuế, đầu tư…) của các bên liên quan.
Ngoài ra, dự kiến Chính phủ sẽ ban hành Quyết định về danh mục các lĩnh vực, cơ sở phát thực hiện kiểm kê khí nhà kính trong năm 2021. Các cơ sở này sẽ tham gia ETS. Dự án cũng đã đề xuất lộ trình cụ thể thực hiện giao dịch ETS tự nguyện vào năm 2027 và giao dịch bắt buộc từ năm 2029.
Cục trưởng Tăng Thế Cường cho biết, Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia Chương trình “Đối tác thực hiện Thị trường các-bon” (PMI) do Ngân hàng Thế giới khởi xướng để hình thành và phát triển thị trường các-bon trong tương lai, đây là giai đoạn tiếp nối của VN-PMR để triển khai các công cụ thị trường tại các nước tham gia Chương trình.
Đến nay đã có 46 quốc gia và 35 vùng lãnh thổ đã áp dụng định giá các-bon với sự tham gia của hàng chục ngàn tập đoàn doanh nghiệp lớn. Nguồn thu riêng năm 2019 lên tới 45 tỷ USD và đặc biệt, đã quản lý được trên 12 tỷ tấn CO2, tương đương 22,3% tổng phát thải toàn cầu.