Việt Nam đóng góp tích cực vào tiến trình
khôi phục tầng ô-dôn
(TN&MT) - Năm 2023, Liên hợp quốc đã đưa ra chủ đề cho Ngày Quốc tế Bảo vệ tầng ô-dôn 16/9 là “Nghị định thư Montreal: Khôi phục tầng ô-dôn và giảm thiểu biến đổi khí hậu”.
Đây có thể xem như lời khẳng định với thế giới rằng quá trình phục hồi tầng ô-dôn trong gần 4 thập kỷ đang diễn ra đúng hướng, và việc tiếp tục triển khai Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô- dôn sẽ đóng góp tích cực cho mục tiêu chung hạn chế sự nóng lên toàn cầu.
Để hiểu rõ hơn về tầm ảnh hưởng của Nghị định thư Montreal và thành quả của Việt Nam khi triển khai Nghị định này, Báo Tài nguyên và Môi trường đã phỏng vấn Tiến sĩ Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) – Cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Nghị định thư Montreal tại Việt Nam.
PV: Thưa ông, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn được phê chuẩn thông qua từ năm 1987 và hiện đã có 198 nước phê chuẩn tham gia. Ông có thể chia sẻ những kết quả đạt được trong thực thi Nghị định thư Montreal và vì sao Liên hợp quốc nhận định rằng các quốc gia đang đi đúng hướng?
Tiến sĩ Tăng Thế Cường: Sau hành trình 36 năm thực hiện, Nghị định thư Montreal đã đóng góp đáng kể trong việc hàn gắn lỗ thủng tầng ô-dôn, ngăn ngừa những hệ lụy tác động đến sức khỏe con người và các hệ sinh thái trên hành tinh.
Năm 1979, các nhà khoa học mới bắt đầu hiểu được những thiệt hại tiềm tàng do sự suy giảm tầng ô-dôn gây ra. Các nhà khoa học càng lo lắng hơn khi thấy lỗ thủng tầng ô-dôn ở Nam Cực mở rộng từ 1,1 triệu km2 vào năm 1979 lên đến 22,4 triệu km2 năm 1987. Chính phủ các quốc gia đã quyết tâm hợp tác để cùng nhau bảo vệ, khôi phục tầng ô-dôn, cùng nhau đưa ra một kế hoạch dài hạn để loại trừ dần các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, làm giảm tốc độ mở rộng của lỗ thủng tầng ô-dôn.
Qua việc triển khai thực hiện Nghị định thư Montreal, lỗ thủng tầng ô-dôn ngày càng được thu hẹp; diện tích lỗ thủng tầng ô-dôn ở Nam Cực năm 1991 vào khoảng 10 triệu dặm vuông, năm 2016 khoảng 8,9 triệu dặm vuông, nhưng đến tháng 9 năm 2017 lỗ thủng tầng ô-dôn này thu hẹp lại chỉ còn khoảng 7,6 triệu dặm vuông.
Nếu không thực hiện Nghị định thư Montreal, thiệt hại đối với động thực vật và con người đã gia tăng nghiêm trọng, tỷ lệ ung thư da sẽ tăng lên trên toàn thế giới. Dự báo, đến năm 2065, lượng bức xạ tia cực tím UV dẫn đến đột biến ADN có thể tăng lên 500%, khoảng 2/3 tổng lượng ô-dôn trên thế giới có thể biến mất và chúng ta sẽ chứng kiến nhiệt độ toàn cầu tăng thêm 2,5°C vào cuối thế kỷ này.
Bên cạnh những nỗ lực loại trừ thành công các chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo mục tiêu đề ra, chúng ta đang phải đối mặt với thách thức mới gắn với xu hướng gia tăng sử dụng các chất có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu cao (các chất HFC), là những chất được sử dụng để thay thế cho các chất làm suy giảm tầng ô-dôn trong các lĩnh vực liên quan như sản xuất điều hòa không khí, xốp, thiết bị lạnh, sửa chữa bảo dưỡng thiết bị lạnh, mỹ phẩm, dập cháy... Bản sửa đổi, bổ sung Kigali thuộc Nghị định thư Montreal được thông qua năm 2016 thể hiện cam kết của cộng đồng quốc tế trong việc cắt giảm dần các chất hydrofluorocarbon (HFC) nhằm hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu (0,5°C) vào cuối thế kỷ này và hy vọng sẽ đạt mục tiêu gấp đôi nếu được triển khai cùng với các giải pháp tiết kiệm năng lượng.
Có thể nói, trong gần bốn thập kỷ qua, với sự nỗ lực của các quốc gia trên toàn thế giới trong thực hiện Nghị định thư Montreal đã đạt được rất nhiều tiến bộ, giúp thu hẹp lỗ thủng tầng ô-dôn để tiến tới khôi phục tầng ô-dôn, bảo vệ sức khỏe con người và các hệ sinh thái trên hành tinh của chúng ta.
PV: Việt Nam đã sớm tham gia Nghị định thư Montreal và nhanh chóng bắt kịp với nỗ lực của các quốc gia thành viên khác trong việc kiểm soát, loại trừ dần các chất làm suy giảm tầng ô-dôn. Vậy đâu là những kết quả nổi bật của Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay?
Tiến sĩ Tăng Thế Cường: Sau gần 30 năm tham gia cam kết quốc tế về bảo vệ tầng ô-dôn, Việt Nam đã chủ động và tích cực triển khai thực hiện Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal và đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp cho việc bảo vệ tầng ô-dôn và giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Thực hiện nhiệm vụ cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Công ước Vienna, Nghị định thư Montreal về bảo vệ tầng ô-dôn, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền nhiều cơ chế chính sách, pháp luật và triển khai các hành động cụ thể để nhanh chóng bắt kịp với nỗ lực của các quốc gia thành viên khác trong kiểm soát, loại trừ dần các chất làm suy giảm tầng ô-dôn.
Trong giai đoạn 2011-2020, việc quản lý nhập khẩu, xuất khẩu và tạm nhập - tái xuất các chất làm suy giảm tầng ô-dôn được thực hiện Thông tư liên tịch số 47/2011/TTLT-BCT-BTNMT ngày 30/12/2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương và một số văn bản sửa đổi, bổ sung có liên quan.
Đến năn 2020, Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn về quản lý, bảo vệ tầng ô-dôn. Triển khai thi hành Luật, ngày 07/01/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT quy định chi tiết hướng dẫn việc quản lý sử dụng, sản xuất, xuất nhập khẩu các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát và lộ trình quản lý, loại trừ các chất được kiểm soát. Trên cơ sở đó, việc quản lý, theo dõi và thực hiện chế độ báo cáo quốc tế được thống nhất và hiệu quả.
Cùng với những nỗ lực xây dựng chính sách, pháp luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ phê duyệt Bản sửa đổi, bổ sung Kigali về quản lý các chất HFC trong khuôn khổ Nghị định thư Montreal tại Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 04/9/2019; phê duyệt tham gia Sáng kiến quản lý vòng đời các chất fluorocarbon góp phần thực hiện lộ trình cắt giảm các chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal tại Nghị quyết số 150/NQ-CP ngày 10/10/2020; phê duyệt chủ trương tham gia Liên minh Tăng cường hiệu quả làm mát do Chương trình Môi trường Liên hợp quốc khởi xướng tại Nghị quyết số 173/NQCP ngày 23/11/2020.
Xây dựng và công bố tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13334:2021 Xốp cách nhiệt polyuretan (PU) sử dụng chất trợ nở dễ cháy - Yêu cầu về an toàn trong sản xuất. Hiện đang hoàn thiện dự thảo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thu gom, vận chuyển, lưu giữ, tái chế, tái sử dụng và xử lý các chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal; Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát để trình ban hành trong năm 2023.
Với những nỗ lực triển khai thực hiện lộ trình theo Nghị định thư Montreal, Việt Nam đã loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất CFC, Halon và CTC từ ngày 01/01/2010; loại trừ hoàn toàn tiêu thụ HCFC-141b nguyên chất được sử dụng trong sản xuất xốp và cấm sử dụng Methyl Bromide cho các ứng dụng ngoài mục đích kiểm dịch hàng xuất khẩu từ ngày 01/01/2015. Bộ Tài nguyên và Môi trường đang triển khai các hoạt động quản lý loại trừ các chất HCFC giai đoạn 2018-2023, triển khai hoạt động hỗ trợ chuyển đổi công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất để không sử dụng các chất HCFC trong các lĩnh vực điều hòa không khí, sản xuất thiết bị lạnh và sản xuất xốp, nhằm loại trừ được 35% mức tiêu thụ cơ sở các chất HCFC và sẽ tiếp tục triển khai để sẽ chỉ còn 2,5% lượng tiêu thụ các chất HCFC vào năm 2030 và chấm dứt hoàn toàn việc nhập khẩu các chất này vào năm 2040.
Thực hiện Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 04/9/2019 của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai thực hiện tốt Bản sửa đổi, bổ sung Kigali về quản lý các chất HFC trong khuôn khổ Nghị định thư Montreal. Xây dựng kế hoạch quản lý loại trừ các chất HFC thực hiện nghĩa vụ loại trừ dần các chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal từ năm 2024, sẽ không gia tăng lượng tiêu thụ HFC trong giai đoạn 2024-2028, loại trừ 10% lượng tiêu thụ các chất HFC vào năm 2029 cho đến năm 2035 và tiếp tục theo lộ trình của Nghị định thư Montreal.
Để đạt được những kết quả trong thời gian qua và triển khai tốt các nhiệm vụ trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang có sự phối hợp chặt chế của các Bộ: Công Thương, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, đặc biệt là sự vào cuộc trực tiếp của cơ quan quản lý xuất nhập khẩu, cơ quan hải quan, các hiệp hội, viện nghiên cứu, trường đại học, các trường nghề và các doanh nghiệp, cơ sở bảo trì, bảo dưỡng thiết bị có liên quan; sự hỗ trợ của Quỹ đa phương thi hành Nghị định thư Montreal, Ban Thư ký ô-dôn quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc…
PV: Việt Nam sẽ làm gì để đóng góp nhiều hơn cho việc khôi phục tầng ô-dôn, thưa ông?
Tiến sĩ Tăng Thế Cường: Trước nhu cầu sử dụng các chất được kiểm soát ngày càng gia tăng, trong giai đoạn tới Việt Nam cần triển khai đồng bộ nhiều hoạt động, từ hoàn thiện thể chế, tiếp tục ban hành quy định pháp luật về quản lý các chất được kiểm soát, xây dựng và các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia phục vụ công tác quản lý để đáp ứng lộ trình thực hiện cam kết quốc tế về bảo vệ tầng ô-dôn.
Việt Nam cần nghiên cứu, ban hành quy định hạn chế hoặc ngừng sử dụng các chất được kiểm soát có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu cao, nhất là khi đã có các chất thay thế mới thân thiện hơn với khí hậu. Chẳng hạn, cần sớm loại trừ HFC-407C trong điều hòa không khí dành cho tàu hỏa; loại trừ HFC-23 trong các hệ thống phòng cháy chữa cháy; loại trừ HCFC-22 trong sản xuất thiết bị lạnh và điều hoà không khí… Cần tích cực hơn trong triển khai quản lý vòng đời các chất được kiểm soát; thúc đẩy các hoạt động tái chế, tái sử dụng và tiêu huỷ các chất được kiểm soát bởi Nghị định thư Montreal
Trong năm 2023 này, dự kiến Thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để thực hiện Nghị định thư Montreal. Kế hoạch sẽ đề ra lộ trình đến năm 2045, các chất làm suy giảm tầng ô-dôn và các chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal được quản lý hiệu quả và loại trừ dần theo lộ trình thông qua việc chuyển đổi sang công nghệ sử dụng các chất có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu thấp hoặc bằng 0, phấn đấu đạt mục tiêu giảm phát thải 11,2 triệu tấn CO2tđ. Việt Nam cũng cần có chiến lược làm mát ở khu vực đô thị và công nghiệp để thực hiện các mục tiêu làm mát quốc gia.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước cần tăng cường phối hợp liên ngành trong kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật; tăng cường kiểm soát xuất nhập khẩu và sử dụng các chất được kiểm soát; hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ không sử dụng các chất theo lộ trình kiểm soát; triển khai các chương trình tăng cường năng lực, đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ kỹ thuật trong lĩnh vực dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa thiết bị lạnh và điều hòa không khí; đào tạo, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề cho đội ngũ kỹ thuật viên… Đó là những việc cần làm để thực hiện tiến trình khôi phục tầng ô-dôn.
PV: Trân trọng cảm ơn ông.