Tham dự Hội thảo có Phó Chủ nhiệm Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Tạ Đình Thi; đại diện lãnh đạo một số Bộ, ngành liên quan; đại diện lãnh đạo Sở TN&MT các tỉnh; các chuyên gia, nhà khoa học, Đại biểu Quốc hội.
Sửa Luật Tài nguyên nước góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy cho biết, Luật Tài nguyên nước được QH khóa XI thông qua năm 1998, được sửa đổi lần 1 vào năm 2012, gồm 10 chương và 79 điều. Sau 10 năm triển khai, Luật đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập như: Một số quy định còn có sự giao thoa, chồng chéo với các Luật mới ban hành gần đây; quản lý tài nguyên nước chưa tiếp cận ở góc độ quản trị nước; thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước; thiếu cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hóa và cơ chế khuyến khích, cũng như chế tài sử dụng nước tiết kiệm...
Tại Nghị quyết số 50/2022 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về bổ sung Luật Tài nguyên nước vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 2023, điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2022. Theo đó, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 5 và dự kiến thông qua vào kỳ họp 6 năm 2023.
Thực hiện nhiệm vụ chủ trì thẩm tra dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức Hội thảo này để lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý cho dự án Luật. Để Hội thảo đạt được mục tiêu đề ra, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, bà Nguyễn Thị Lệ Thủy đề nghị các đại biểu tham dự tích cực thảo luận, đóng góp ý kiến về từng nhóm vấn đề trọng tâm của dự thảo Luật. Kết quả Hội thảo sẽ được tổng hợp để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghiên cứu, xem xét góp phần phục vụ việc Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trong thời gian tới.
Nhiều điểm mới trong dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
Báo cáo về dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) bám sát vào 4 chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị Quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022, gồm: bảo đảm an ninh nguồn nước; xã hội hóa ngành nước; kinh tế tài nguyên nước; bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra và đề xuất sửa đổi bổ sung một số chính sách khác.
Bộ TN&MT đã xây dựng dự thảo Luật theo hướng quy định tất cả các nội dung về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra đã được quy định tại các Luật khác, đồng thời quy định rõ quản cái gì? Quản như thế nào? và Ai quản? Theo đó, dự thảo Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành như Bộ TN&MT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Tài chính... theo đúng chức năng nhiệm vụ đã được giao tại các luật có liên quan đến tài nguyên nước để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất.
Cũng theo Cục trưởng Châu Trần Vĩnh, trong quá trình xây dựng dự thảo Luật không bổ sung chính sách mới. Dự thảo Luật gồm 88 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 10 điều, sửa đổi, bổ sung 62 điều, bổ sung mới 16 điều và bãi bỏ 8 điều).
Về điểm mới của dự thảo Luật, ông Châu Trần Vĩnh cho biết, Luật bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia xuyên suốt trong toàn bộ dự thảo Luật thông qua các quy định để đảm bảo về số lượng nước, chất lượng cho các mục đích sử dụng, đảm bảo hệ sinh thái và môi trường và giảm thiểu tác hại do nước gây ra. Đặc biệt, quy định cụ thể về điều hòa, phân phối tài nguyên nước, nhất là trong điều kiện hạn hán, thiếu nước (Điều 39, Điều 40).
Bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hoá theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước hướng tới nhà nước quản lý, doanh nghiệp thực hiện và dần dịch chuyển theo hướng nhà nước chỉ ban hành chính sách và hậu kiểm (Điều 14, Điều 38, Điều 72, Điều 73 và Điều 74).
Bổ sung quy định về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, trong đó quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước (Điều 73); làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hoá, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển tài nguyên nước (Điều 74).
Cùng với đó, chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước (Điều 68, Điều 69).
Sửa đổi, bổ sung quy định về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước nhằm tính đúng, tính đủ giá trị tài nguyên nước, trong đó, dự thảo Luật bổ sung thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt và thu tiền theo lộ trình đối với sản xuất nông nghiệp (Điều 69, Điều 87).
Bổ sung điều “tích hợp hoạt động tài nguyên nước”, nhằm tính toán giá trị của nước trong các hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Việc tính toán đầy đủ giá trị của nước là một trong những căn cứ để cơ quan có thẩm quyển xem xét, quyết định việc điều hòa, phân bổ và thực hiện các giải pháp bảo vệ tài nguyên nước trên các lưu vực sông (Điều 71).
Bổ sung các quy định về quản lý khai thác, sử dụng nước nhằm kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng nước phải phải đúng mục đích sử dụng, phù hợp với chức năng nguồn nước (Điều 26), khả năng của nguồn nước và đảm bảo dòng chảy tối thiểu trên sông, suối (Điều 28), ngưỡng khai thác nước dưới đất
(Điều 29); quy định cụ thể về giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng nước theo hướng kết nối, truyền dữ liệu tự động liên tục và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước (Điều 57).
Bổ sung các quy định về phòng, chống sạt, lở lòng bờ, bãi sông, hồ
(Điều 66) và các quy định về việc lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm phá không được san lấp (Điều 63) nhằm tăng cường việc bảo vệ các nguồn nước có chức năng điều hòa, phòng chống ngập úng, bảo vệ môi trường.
Quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng kịch bản ứng phó, điều hoà, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước (Điều 39, Điều 40).
Bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương trong toàn bộ dự thảo Luật (Điều 79, Điều 80). Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước (Điều 42).
Đặc biệt, dự thảo Luật được xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy...); đồng thời giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các luật.
Ngoài ra, còn một số nội dung được chỉnh sửa, bổ sung mới như: hệ thống thông tin, dữ liệu tài nguyên nước (Điều 10); bảo vệ nước dưới đất (Điều 33); bổ sung nhân tạo nước dưới đất (Điều 43); các loại hình công trình khai thác, công trình sử dụng nước phải có giấy phép (Điều 47); phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo (Điều 63); phương án xử lý đối với các công trình khai thác sử dụng nước kém hiệu quả gây suy thoái cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước (Điều 36). Bỏ quy định về điều kiện của đơn vị tư vấn lập quy hoạch, điều tra cơ bản tài nguyên nước.
Nhiều ý kiến tâm huyết đóng góp vào dự thảo Luật
Tại Hội thảo, các đại biểu đánh giá cao nội dung dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) do Bộ TN&MT xây dựng và cho rằng dự thảo Luật đã được sửa đổi, bổ sung đáp ứng các yêu cầu thực tiễn ngày càng gia tăng về khai thác tài nguyên nước, bảo vệ, phục hồi, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời phù hợp với các chủ trương, chính sách mới trong quản lý tài nguyên nước..
Tham luận tại Hội nghị, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, Đại biểu Quốc hội đã chia sẻ, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng, tâm huyết cho dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Góp ý vào dự thảo Luật, ông Tạ Quang Vinh – Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật (Bộ Xây dựng) cho biết, tại khoản 4 Điều 31 quy định “Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương xây dựng, trình Chính phủ hướng dẫn phân loại cấp công trình cấp nước, xây dựng phương án bảo vệ công trình cấp nước. Căn cứ quy mô, phạm vi cấp nước, nhiệm vụ, tầm quan trọng, vị trí khai thác nước, Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án bảo vệ công trình cấp nước sinh hoạt quan trọng đặc biệt”.
Ông Tạ Quang Vinh đề nghị bỏ quy định này vì đã được quy định trong pháp luật về sản xuất, cung cấp nước sạch, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 33 quy định “Tổ chức, cá nhân thiết kế, thi công các công trình,… và bảo vệ môi trường nước dưới đất theo quy định của pháp luật về môi trường”. Ông Tạ Quang Vinh đề nghị bỏ nội dung liên quan đến “bảo vệ môi trường nước dưới đất theo quy định của pháp luật về môi trường” vì đã được quy định cụ thể trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Góp ý vào nội dung bảo vệ tài nguyên nước, TS. Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Cấp Thoát nước Việt Nam cho rằng, tại Điều 31. Bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt, nếu chỉ quy định về “vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước ” là chưa đủ, vì vậy TS Trần Anh Tuấn đề xuất Ban soạn thảo Dự án Luật nên bổ sung “hành lang bảo vệ nguồn nước” và bổ sung nguồn kinh phí cho công tác bảo vệ này. Ngoài ra xem xét bổ sung các quy định bảo vệ nguồn nước ứng phó với ảnh hưởng của xâm nhập mặn, cạn kiệt nguồn nước,… do biến đổi khí hậu và tại Điều 31 nên xem xét bổ sung một Khoản quy định về “Ưu tiên bảo vệ, phục hồi các nguồn nước “có chức năng” phục vụ sinh hoạt khi có nguy cơ suy thoát, cạn kiết, ô nhiễm”.
Cùng với đó, tại Điều 32 quy định về nội dung bảo vệ chất lượng nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản và các hoạt động khác, TS. Trần Anh Tuấn đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ công trình cấp nước sinh hoạt “quan trọng đặc biệt”, cần có định tính, định lượng cho loại công trình này. Mặt khác, các công trình cấp nước sinh hoạt cần được cho là quan trọng vì ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người.
Đề cập về cơ chế khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước, ông Phùng Kim Sơn - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Sơn La cho rằng, việc triển khai thực hiện các đề án, dự án, nhiệm vụ, chương trình thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo quy định của Luật còn gặp nhiều khó khăn do một số nhiệm vụ không có hướng dẫn chi tiết, cụ thể quy trình, định mức kinh tế kỹ thuật dẫn đến kéo dài thời gian lập, thẩm định, triển khai thực hiện; nguồn kinh phí chủ yếu là ngân sách Nhà nước, chưa có cơ chế rõ ràng cho khuyến khích việc xã hội hóa để triển khai nội dung này.
Ông Phùng Kim Sơn đề nghị xem xét, bổ sung nội dung “có cơ chế khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước” vào dự thảo Luật và đề xuất nội dung này nên do Nhà nước thực hiện để đảm bảo “an ninh nguồn nước”.
Ngoài ra, ông Phùng Kim Sơn đề nghị, việc tính toán xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước tại Luật Tài nguyên nước năm 2012 không có hướng dẫn chi tiết nên gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện (cụ thể không hướng dẫn chi phí trực tiếp gồm những chi phí nào), vì vậy ông Phùng Kim Sơn đề xuất Ban soạn thảo dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nên nghiên cứu kỹ hơn về nội dung này.
Đóng góp ý kiến vào việc đảm bảo an ninh nguồn nước sinh hoạt, ông Nguyễn Công Hàm - Phó Giám đốc Thường trực Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tuyên Quang cho rằng, việc quản lý tài nguyên nước được thực hiện chủ yếu theo quy định của Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường. Việc sản xuất nước sạch, phân phối, tiêu thụ nước sạch được thực hiện theo quy định của Nghị định về sản xuất, cung cấp nước sạch do Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo hoặc quy định tại Luật Thủy lợi nếu việc khai thác nước này nằm trong hệ thống công trình thủy lợi. Hơn nữa, việc quản lý, giám sát chất lượng sạch sau quá trình sản xuất cho đến cấp nước cho các hộ dân được thực hiện theo quy định về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt của Bộ Y tế. Do vậy, còn nhiều khó khăn trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước sinh hoạt nên đề nghị cần có sự điều chỉnh trong dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Cũng tại Hội thảo, một số các đại biểu, đại diện các Sở, ngành còn đóng góp ý kiến vào các nội dung: Trách nhiệm quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên nước; quy hoạch về tài nguyên nước; cấp quyền, cấp giấy phép khai thác tài nguyên nước; ...
Phát biểu kết luận, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy đánh giá cao các ý kiến đóng góp của các đại biểu, các cơ quan có liên quan và giải trình của cơ quan soạn thảo; đồng thời đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu tiếp thu các ý kiến, tiếp tục rà soát các nội dung trong dự thảo Luật để tạo hành lang pháp lý phát triển đất nước phù hợp với pháp luật nhà nước và các cam kết quốc tế; lấy ý kiến các bộ, ngành, các địa phương, đối tượng chịu tác động, trong đó có cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư để nhanh chóng hoàn thiện dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).