Hội nghị Quan chức cấp cao ASEAN về khoáng sản (ASOMM) lần thứ 21 được tổ chức vào ngày 6/10 tại điểm cầu Hà Nội |
Trao đổi bên lề Hội nghị Quan chức cấp cao ASEAN về khoáng sản (ASOMM) lần thứ 21 vào ngày 6/10 tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Nguyên – Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết, việc mua bán được tiến hành theo DPAMC cho thấy một số Quốc gia Thành viên ASEAN có lịch sử lâu đời về sản xuất khoáng sản, trong khi những nước khác lại là các nhà sản xuất mới nổi. Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan là một trong những nhà sản xuất lớn của ASEAN ở mức sản xuất quy mô thế giới.
Indonesia là quốc gia khai thác mỏ thiếc, niken, đồng, vàng và bauxite xếp hạng thế giới. Năm 2016, quốc gia này sản xuất 18% sản lượng khai thác-thiếc toàn cầu (nhà sản xuất lớn thứ ba) và 9,5% niken, 3,6% đồng và 2,6% vàng. Trữ lượng khoáng sản toàn cầu của Indonesia được xếp thứ năm về vàng, thứ bảy về đồng, thứ sáu về niken, thứ hai về thiếc và thứ sáu về bô xít. Lĩnh vực khoáng sản chiếm 7,2% GDP của Indonesia vào năm 2016 (bao gồm cả từ than đá), với tổng số việc làm trong lĩnh vực khai thác và khai thác đá liên quan đến hơn 1,4 triệu người.
Malaysia sản xuất khá nhiều mặt hàng khoáng sản như bôxít, vàng, quặng sắt, mangan, thiếc, đất sét, cốt liệu, mica, dolomit, caolin-fenspat, cao lanh, đá vôi, cát silica, cát và sỏi, than đá cũng như khí tự nhiên và dầu mỏ. Khoáng sản được sản xuất từ các sản phẩm phụ của khai thác thiếc bao gồm ilmenit, monazit, xenotime, rutil, struverit (một khoáng chất niobi-tantali) và zircon cũng như bạc từ khai thác vàng. Các tài nguyên khoáng sản khác như đồng, niken và đá silica, hiện chưa được khai thác. Malaysia cũng có một nhà máy chế biến có ý nghĩa chiến lược đối với các nguyên tố đất hiếm, sử dụng các chất cô đặc từ một mỏ ở Tây Úc.
Philippines nắm giữ một phần tư sản lượng niken của thế giới và 6% tổng trữ lượng niken của thế giới. Philippines cũng là một nhà sản xuất đồng lớn, có tiềm năng cao khám phá thêm cả đồng và vàng. Nó có thể tạo ra coban, một khoáng chất quan trọng hàng đầu. Lĩnh vực khai thác và khai thác đá năm 2015 đóng góp khoảng 1% vào GDP quốc gia và tạo ra khoảng 240.000 việc làm trực tiếp.
Thái Lan là một trong những nhà sản xuất fenspat và thạch cao, quặng sắt, mangan, bạc, thiếc, vonfram, kẽm và chì hàng đầu thế giới cùng với nhiều loại khoáng sản công nghiệp. Là nhà sản xuất đồng cho đến năm 2015 cũng như vàng và bạc cho đến năm 2017. Quốc gia này có triển vọng đối với khoáng sản phân bón, kali. Lĩnh vực khai thác và khai thác đá là một ngành nhỏ nhưng ngày càng có nhiều người sử dụng lao động. Nước này rất có cơ hội tăng sản lượng khai thác khoáng sản.
Myanmar và Việt Nam cũng được coi là một trong những nước sản xuất khoáng sản triển vọng trên thế giới trong ASEAN. Trong khi Myanmar là nước có tài nguyên đá quý lớn trên thế giới và nhà sản xuất thiếc lớn thứ hai, Việt Nam là nhà sản xuất bismuth và vonfram lớn trên thế giới và được đánh giá là có triển vọng về đồng. Về trữ lượng, Việt Nam được đánh giá là có trữ lượng hàng đầu thế giới gồm antimon, barit, bauxit, bitmut, đồng, florit, graphit, niken, đất hiếm, cát silica, bạc, thiếc, titan, vonfram, kẽm, và zircon. Nó có trữ lượng bauxite lớn thứ ba thế giới, mặc dù là một nhà sản xuất tương đối nhỏ. Việt Nam cũng được đánh giá là nước có trữ lượng đất hiếm lớn nhất thế giới, mặc dù, sản lượng hiện nay còn nhỏ. Khai thác và khai thác đá ở Việt Nam ước tính đóng góp hơn 8% GDP của Việt Nam và tạo ra khoảng 240.000 việc làm.
Triển vọng phát triển cho Hợp tác Khoáng sản ASEAN |
CHDCND Lào được coi là một quốc gia có triển vọng về địa chất và sản xuất nhiều loại khoáng sản khác nhau, bao gồm đồng, vàng, bạc, kali, thiếc, barit, kẽm, sắt, than, chì, antimon, đá cẩm thạch, pagodite và đá vôi. Sản lượng khoáng sản này tuy nhỏ nhưng đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia của CHDCND Lào ở mức trung bình 6% mỗi năm từ năm 2016-2020. Tương tự, sản xuất xi măng, sỏi, muối, cát và đá đóng góp vào một phần nhỏ nhưng thiết yếu của nền kinh tế Campuchia trong năm 2017 và 2018, chủ yếu được sử dụng trong xây dựng cơ sở hạ tầng và các tòa nhà. Năm 2019, hoạt động thăm dò ở Campuchia đạt mức cao nhất, có thể là do sản phẩm mở rộng và sản lượng có giá trị hơn.
Brunei Darussalam có nguồn tài nguyên khai thác chủ yếu từ dầu và khí đốt, chiếm khoảng 90% lượng hàng hóa xuất khẩu của nước này. Chỉ một lượng nhỏ các khoáng chất khác được sản xuất, trong đó chỉ ghi nhận xi măng. Dữ liệu về sản xuất các chất ngoại lai, chẳng hạn như cát và sỏi không có sẵn. Brunei có năng lực và tiềm năng về chế biến khoáng sản nhờ nguồn năng lượng dồi dào, cộng với sản xuất phân bón quy mô lớn (amoniac/urê) và sản xuất hydro sử dụng khí tự nhiên làm nguyên liệu.
Trong khi đó, mặc dù, không phải là nước sản xuất khoáng sản nhưng Singapore lại nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu khoáng sản cho ngành sản xuất của mình. Quốc gia này là trung tâm tinh chế và kinh doanh vàng của ngành, đồng thời là chủ sở hữu của các nhà máy tinh chế vàng lớn của Indonesia trong ASEAN. Thương mại khoáng sản đóng vai trò quan trọng đối với Singapore, với các sản phẩm từ khoáng sản chiếm 14% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% kim ngạch xuất khẩu, với kim loại chiếm thêm 3% xuất khẩu. Điện tử sử dụng nhiều khoáng sản chiếm một phần lớn trong xuất khẩu và doanh số bán hàng được dự báo sẽ tiếp tục tăng.
Phó Tổng Cục trưởng Nguyễn Văn Nguyên nhấn mạnh, ASEAN đại diện cho một trung tâm nhu cầu hiện tại và trong tương lai đối với sản xuất khoáng sản. Ông mong muốn, Kế hoạch Hành động Hợp tác Khoáng sản ASEAN 2016 – 2025 (AMCAP-III) Giai đoạn 2 (2021 – 2025) sẽ hướng dẫn hợp tác khoáng sản ASEAN để các Quốc gia thành viên cùng hợp tác xây dựng đầu tư về khoáng sản, phát triển ngành khoáng sản, mở rộng thương mại và đảm bảo các phương pháp tiếp cận bền vững đối với phát triển khoáng sản.