Thống đốc Nguyễn Thị Hồng: Dự nợ tín dụng xanh hiện khoảng 650 nghìn tỷ đồng
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, năm 2017, chỉ có 5 tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia tín dụng xanh, đến nay đã có 50 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ vào khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%.
Sáng 11/11, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực ngân hàng. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì điều hành phiên họp.
Báo cáo một số vấn đề liên quan tới nội dung chất vấn, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, kể từ Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, là Kỳ họp Thống đốc NHNN trả lời chất vấn các đại biểu đến nay, kinh tế thế giới biến động phức tạp, khó lường. Đại dịch Covid-19 được kiểm soát nhưng hệ lụy và tác động vẫn còn dai dẳng. Căng thẳng chính trị, thương mại gia tăng, lạm phát tăng cao trên phạm vi toàn cầu. Chính sách tiền tệ thắt chặt nhanh và mạnh ở nhiều nước khiến mặt bằng lãi suất thế giới tăng cao.
Trước bối cảnh khó khăn nêu trên, NHNN và hệ thống ngân hàng đã luôn kiên định mục tiêu, bình tĩnh, chủ động theo dõi sát diễn biến kinh tế, tiền tệ quốc tế và trong nước để điều hành các công cụ và giải pháp chính sách với liều lượng, thời điểm hợp lý với từng bối cảnh, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Hoạt động ngân hàng đã có đóng góp tích cực đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối.
Thống đốc NHNN nêu rõ, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, hoạt động ngân hàng không tránh khỏi thiếu sót, tồn tại, hạn chế, cần tiếp tục nhận diện để khắc phục, tiến tới điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng hiệu quả hơn trong thời gian tới, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Đáp ứng chuyển đổi xanh của doanh nghiệp
Đặt câu hỏi với Thống đốc NHNN, đại biểu Lê Đào An Xuân - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên nêu vấn đề: Theo kế hoạch tăng trưởng xanh, NHNN được giao nhiệm vụ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tín dụng xanh và ngân hàng xanh. Đây là nhóm nhiệm vụ ở mức ưu tiên cao và phải thực hiện trong giai đoạn 2021-2025. Thời gian qua, NHNN đã ban hành một số văn bản như Đề án phát triển Ngân hàng xanh tại Việt Nam vào năm 2018, hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường năm 2023. Các ngân hàng thương mại cũng đã cung cấp các gói tín dụng xanh chủ yếu cho các lĩnh vực năng lượng, nông, lâm nghiệp, xử lý chất thải.
Tuy nhiên, thực tiễn còn rất nhiều doanh nghiệp ở các lĩnh vực cần chuyển từ nâu sang xanh trong bối cảnh chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai và biến đổi khí hậu thì lại có rất ít thông tin và rất khó để tiếp cận các nguồn vốn xanh. Vậy Thống đốc đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ này đến năm 2025 như thế nào, liệu có đáp ứng kịp thời nhu cầu chuyển đổi xanh của doanh nghiệp hay không?
Trả lời câu hỏi này, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, bảo vệ môi trường là vấn đề rất quan trọng trong phát triển bền vững và được các nước trên thế giới cũng quan tâm. Đối với Việt Nam, Trung ương, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ cũng đặc biệt quan tâm vấn đề này.
Đối với NHNN, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nêu rõ, trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết và kế hoạch triển khai của Chính phủ, NHNN đã ban hành các chỉ thị, văn bản để khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) tập trung nguồn lực để cấp tín dụng xanh, triển khai các giải pháp quản lý rủi ro về môi trường khi các TCTD cấp tín dụng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để góp phần đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng cho biết, NHNN đã ban hành các kế hoạch hành động, giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trong hệ thống, triển khai các chương trình tín dụng đặc thù, góp phần sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tăng trưởng xanh.
Năm 2017, từ chỉ có 5 TCTD tham gia tín dụng xanh, đến nay đã có 50 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ vào khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%. Đặc biệt, dư nợ tín dụng mà các TCTD khi cấp tín dụng đánh giá về các rủi ro môi trường đã tăng lên khoảng 3,2 triệu tỉ đồng trong tổng số dư nợ của cả hệ thống là 15 triệu tỉ đồng.
Tuy nhiên, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng chỉ rõ, hiện NHNN cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì hệ thống ngân hàng cần được hướng dẫn của các cơ quan, bộ ngành liên quan đến danh mục phân loại xanh để các TCTC khi cấp tín dụng căn cứ vào đó. Còn đối với đầu tư vào lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị rất lớn và kì hạn dài, đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng rất ngắn hạn.
Do đó, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian tới NHNN cũng sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện triển khai theo đúng kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phân loại xanh thì NHNN sẽ hướng dẫn các TCTD cấp tín dụng xanh và NHNN sẽ theo dõi thực hiện, đánh giá rủi ro về môi trường, nếu có vướng mắc phát sinh thì NHNN sẽ tiếp tục chỉnh sửa.
Làm rõ vấn đề giải quyết nợ xấu
Tại phiên chất vấn, các nội dung liên quan đến giải pháp xử lý nợ xấu, giải pháp hạn chế tác động của lạm phát nhập khẩu, kết quả tháo gỡ vướng mắc trong tiếp cận vốn của khu vực kinh tế tập thể… cũng được các ĐBQH quan tâm.
Đặt vấn đề chất vấn liên quan đến nợ xấu, đại biểu Trần Hồng Nguyên - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Thuận đề nghị Thống đốc NHNN đánh giá tính hình nợ xấu ở nước ta hiện nay và những giải pháp để giải quyết vấn đề này? Đại biểu đặt câu hỏi: “Nếu không xử lý được vấn đề nợ xấu thì việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ gặp khó khăn gì và Thống đốc NHNN có giải pháp cụ thể nào khi tình huống này xảy ra?”.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Trần Hồng Nguyên, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian vừa qua, tình hình nợ xấu có xu hướng tăng cao. Theo số liệu của NHNN, tính đến cuối tháng 9/2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức 4,55%- gần bằng mức cuối năm 2023, tăng so với năm 2022. Đây là một thực tế do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19 đã tác động nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống, xã hội. Doanh nghiệp và người dân khó khăn, giảm nguồn thu dẫn đến việc trả nợ càng khó khăn hơn.
Để kiểm soát nợ xấu, NHNN cũng đề ra một số giải pháp. Theo đó, đối với các TCTD, khi cho vay cần thẩm định, đánh giá kỹ lưỡng về khả năng trả nợ của khách hàng vay, đảm bảo kiểm soát nợ xấu mới phát sinh. Còn đối với các nợ xấu hiện hữu, cần tích cực xử lý nợ xấu thông qua việc đôn đốc khách hàng trả nợ, thu nợ, phát mại tài sản của nợ xấu. NHNN cũng đã có khuôn khổ pháp lý đối với các công ty mua bán nợ để có thể tham gia xử lý nợ xấu.
Đối với trường hợp nợ xấu tăng cao, Thống đốc cho biết, NHNN sẽ thực hiện đồng bộ các biện pháp để tháo gỡ khó khăn, vừa giảm mặt bằng lãi suất cho vay, vừa chỉ đạo các TCTD phải phấn đấu tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất cho vay cho doanh nghiệp và người dân. Trong giai đoạn nền kinh tế còn khó khăn, hệ thống các TCTD đã dành nguồn lực tài chính của mình để giảm được nhiều lãi suất cho khách hàng.
Tham gia chất vấn, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn - Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương đề nghị Thống đốc NHNN cho biết Việt Nam có nên tiếp tục điều chỉnh lãi suất hay có các chính sách can thiệp khác để hạn chế tác động của lạm phát nhập khẩu không? NHNN có nên thay đổi chính sách dự trữ ngoại hối để đối phó với biến động tỷ giá khi tình hình thế giới có nhiều biến động như hiện nay?
Trả lời câu hỏi của đại biểu, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nêu rõ, việc tiếp tục giảm lãi suất hay không hoàn toàn phụ thuộc vào diễn biến kinh tế thế giới, trong nước, đặc biệt là diễn biến về thanh khoản, tình trạng của hệ thống ngân hàng. Thời gian qua, đã giảm mặt bằng lãi suất khá nhiều so với các nước; NHNN sẽ tiếp tục theo dõi để điều hành.
Còn về dự trữ ngoại hối nhà nước, Thống đốc cho biết, nguyên tắc quản lý là đảm bảo an toàn và đảm bảo thanh khoản và sinh lời. Hiện, NHNN đang thực hiện theo hướng an toàn thanh khoản là chủ yếu; và sẽ tính toán phương án sinh lời ngoại hối theo hướng tốt nhất.
Tham gia chất vấn, đại biểu Tạ Minh Tâm - Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang đề nghị Thống đốc NHNN cho biết nhận định về kết quả tháo gỡ vướng mắc trong tiếp cận vốn của khu vực kinh tế tập thể, nhất là các đơn vị kinh tế tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp? Trách nhiệm và giải pháp của NHNN trong thời gian tới?
Trả lời câu hỏi của đại biểu của Tạ Minh Tâm, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN đã quan tâm đến các giải pháp về tín dụng cho khu vực kinh tế tập thể và thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo phối hợp với các bộ, ban, ngành và Liên minh Hợp tác xã để rà soát những khó khăn, tồn tại để tham mưu, đề xuất.
NHNN đã tham mưu phối hợp với các bộ, ngành tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 55 về tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông nghiệp, nông thôn, NHNN đang chủ trì phối hợp với các bộ, ngành đánh giá, tổng kết và sửa đổi Nghị định 55.
Đối với các hợp tác xã thuộc đối tượng cho vay theo chương trình của Ngân hàng Chính sách xã hội, Thống đốc NHNN cho biết, hiện nay Ngân hàng Chính sách xã hội triển khai 27 chương trình tín dụng cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo. Đây là những văn bản NHNN chịu trách nhiệm tham mưu cho Chính phủ, nếu hợp tác xã thuộc đối tượng của Ngân hàng Chính sách xã hội cũng sẽ được tiếp cận.
“Thời gian qua, chúng tôi tích cực thực hiện các giải pháp hỗ trợ và đối với Ngân hàng Chính sách xã hội cũng là đầu mối phối hợp với các cơ quan bộ, ngành để tham mưu Chính phủ và tham mưu Quốc hội bố trí nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện cho các chương trình này”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.
Phiên chất vấn thuộc lĩnh vực ngân hàng tập trung ba nhóm vấn đề: Việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới nhiều biến động; Công tác quản lý nhà nước về thị trường vàng, thị trường ngoại hối; Công tác hỗ trợ vay vốn và miễn, giảm lãi suất cho người dân, doanh nghiệp để phục hồi sản xuất, kinh doanh sau dịch COVID-19 và thiên tai.