Tham gia thỏa thuận toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa: Việt Nam cần chuẩn bị kỹ lưỡng các nguồn lực

Kim Liên ( thực hiện)| 25/07/2022 17:27

Việt Nam đang chuẩn bị tham gia đàm phán Thỏa thuận toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa. Vậy chúng ta cần phải làm gì để có thể đưa ra một cam kết phù hợp với thực tiễn, khả thi? Phóng viên Báo TN&MT đã có cuộc phỏng vấn ông Hoàng Xuân Huy, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ TN&MT.

Tại Nairobi (Kenya), ngày 02 tháng 3 năm 2022, Việt Nam cùng 175 quốc gia đã thông qua một nghị quyết lịch sử tại Đại hội đồng Môi trường Liên hợp quốc (UNEA-5) về chấm dứt ô nhiễm nhựa và xây dựng một thỏa thuận ràng buộc pháp lý quốc tế vào năm 2024. Để Nghị quyết được triển khai một cách toàn diện, tại thời điểm này, Việt Nam đang chuẩn bị tham gia đàm phán Thỏa thuận toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa. Vậy chúng ta cần phải làm gì để có thể đưa ra một cam kết phù hợp với thực tiễn, khả thi? Phóng viên Báo TN&MT đã có cuộc phỏng vấn ông Hoàng Xuân Huy, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ TN&MT.

anh-huy.jpg
Ông Hoàng Xuân Huy, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ TN&MT

PV: Xin ông cho biết ý nghĩa của Thỏa thuận toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa mà Việt Nam cùng các nước đã tham gia tại sự kiện Narobi tháng 3/2022 vừa qua và đang tiếp tục triển khai trong thời điểm hiện nay?

Ông Hoàng Xuân Huy: Hiện nay thế giới/hành tinh trái đất đang đối mặt với 3 cuộc khủng hoảng, hay thách thức về môi trường gồm: BĐKH, ô nhiễm môi trường và mất đa dạng sinh học. Ô nhiễm chất thải nhựa được xem là 1 trong 3 cuộc khủng hoảng này.

Vấn đề Giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa toàn cầu đã được đặt ra từ lâu, và trải qua quá trình tham vấn ở mọi cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, tất cả các quốc gia đã đi đến một quyết định có tính lịch sử tại Hội nghị đại hội đồng môi trường toàn cầu lần 2 (UNEA5.2), tổ chức vào tháng 3/2022 đó là việc thông qua thông qua Nghị quyết 5/14 về “Chấm dứt ô nhiễm nhựa: Hướng tới một công cụ ràng buộc pháp lý quốc tế”.

Giải quyết ô nhiễm chất thải nhựa/rác thải nhựa đại dương đã và đang được Chính phủ dành nhiều sự quan tâm, thể hiện qua việc cam kết ở cấp cao tại các diễn đàn lớn của khu vực và quốc tế như G7 mở rộng ở Canada, G20 Nhật bản, HN BTMT Châu Á-TBD,… Việt Nam đã luôn tích cực và thể hiện vai trò tiên phong trong vấn đề này. Tại UNEA5.2 đã cùng các quốc gia thống nhất thông qua NQ5/14.

Tôi cho rằng việc hình thành Thỏa thuận là một xu thế tất yếu của thế giới nhằm giải quyết 1 trong 3 cuộc khủng hoảng nêu trên. Ô nhiễm môi trường do chất thải nhựa tại VN ngày càng trở nên nghiêm trọng, ảnh hướng đến môi trường sống của con người và sinh vật cả trên đất liền và trên biển, tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội của người dân.

Việc Việt Nam tham gia đàm phán Thỏa thuận có ý nghĩa to lớn bởi nó đã thể hiện vai trò, trách nhiệm quốc gia, đóng góp vào nỗ lực chung giải quyết vấn đề/thách thức toàn cầu, đáp ứng yêu cầu và xu thế hội nhập với quốc tế về vấn đề này. Đây cũng là cơ hội để hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa. Đồng thời là cơ hội để học hỏi kiến thức, kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ sạch thân thiện môi trường, các mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn lĩnh vực nhựa, tăng cường hợp tác và hỗ trợ quốc tế đối với

PV: Thưa ông, là một người từng có nhiều kinh nghiệm khi tham gia đàm phán các thỏa thuận có tính chất quốc tế, vậy đối với việc đàm phán Thỏa thuận toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa, Việt Nam cần lưu ý những vấn đề gì để đảm bảo các cam kết đúng thực chất, có thể thực thi khi ban hành?

Ông Hoàng Xuân Huy : Đây là một Thỏa thuận ràng buộc mang tính chất pháp lý và có sử dụng chế tài (cơ chế tham vấn, giải quyết tranh chấp nếu vi phạm cam kết), vì vậy, theo tôi, Việt Nam cần lưu ý tới những vấn đề quan trọng sau: Những nghĩa vụ được cam kết sẽ phải được đánh giá kỹ lưỡng về năng lực thực hiện để đảm bảo khi đã ký kết và phê chuẩn, Việt Nam sẽ thực hiện hiệu quả và nghiêm túc, tránh việc vi phạm cam kết.

Các tác động về chính sách cần phải được đánh giá trước, trong đàm phán và sau khi ký kết làm cơ sở cho việc xác định các phương án đàm phán, đưa ra các mức cam kết phù hợp được nội luật hóa thành các chính sách liên quan của quốc gia.

Nhận thức của mọi người dân, doanh nghiệp, các cấp quản lý (trong sản xuất, tiêu dùng sản phẩm nhựa, xử lý ô nhiễm nhựa) là cực kỳ quan trọng. Vì vậy, công tác truyền thông trong thời gian tới sẽ là nhân tố quyết định đến việc thực thi nghiêm túc và hiệu quả Thỏa thuận,

Các giải pháp khoa học-công nghệ, mô hình phát triển kinh tế, chiến lược, kế hoạch hành động nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa trong thời gian tới cần được tăng cường, thúc đẩy (gồm kinh tế tuần hoàn, sản xuất sản phẩm nhựa sinh học thân thiện môi trường, tái chế-tái sử dụng, các sản phẩm thay thế,…)

Đồng thời phải có cơ chế rõ ràng trong việc khuyến khích những mô hình phát triển xanh, sạch thân thiện môi trường hoặc xử phạt những vi phạm pháp luật liên quan đến sản xuất, tiêu dùng sản phẩm nhựa, xử lý ô nhiễm chất thải nhựa. Và điều quan trọng là cần chuẩn bị nguồn lực, kế hoạch và lộ trình thực hiện sau khi ký kết và phê chuẩn.

PV: Vậy theo ông, Việt Nam cần chuẩn bị những gì để đạt được những nội dung phù hợp với năng lực của mình cũng như tương xứng với những gì chúng ta cam kết, thưa ông?

Ông Hoàng Xuân Huy: Thời gian từ nay đến năm 2024, khi Thỏa thuận toàn cầu kết thúc, Chúng ta có rất nhiều việc cần làm để chuẩn bị cho đàm phán. Trước hết, theo tôi cần huy động nguồn lực tài chính tham gia và Nhân lực đàm phán (trực tiếp + gián tiếp) cho đến khi kết thúc đàm phán (2024).

Ở đây phải chuẩn bị cả nguồn nhân lực trong và ngoài Bộ TN&MT; cùng với đó là phải thực hiện nhiệm vụ đánh giá tác động chính sách (để điều chỉnh, cập nhật và hoàn thiện) và tác động của nó lên kinh tế, xã hội (để có những sự điều chỉnh, phù hợp) và làm căn cứ để xác định mức độ cam kết. Đó là các ngành sản xuất, công nghiệp nhựa; Xuất, nhập khẩu nguyên phụ liệu, phế liệu nhựa; Thuế, phí; Xử lý chất thải nhựa, tái chế, kinh tế tuần hoàn; Tiêu dùng nhựa; Ngành sản xuất các sản phẩm thay thế, nhựa sinh học tự phân hủy,…

Đây chính là căn cứ để xác định mức độ cam kết (cao, trung bình, thấp) phù hợp với điều kiện và năng lực, đồng thời đảm bảo được lợi ích của quốc gia, đáp ứng xu thế hội nhập, đóng góp vào nỗ lực chung của toàn cầu để giải quyết thách thức môi trường toàn cầu này.

Cùng với đó là việc tiến hành thực hiện tham vấn (trước, trong và sau ký kết). Việc tham vấn cần tiến hành với tất cả các bên liên quan (đối tượng tác động trực tiếp (DN, người dân, nhà quản lý, địa phương,…) và tham vấn cả với quốc tế. Nội dung tham vấn sẽ là các nội dung sẽ cam kết; chính sách được điều chỉnh, các giải pháp,… các biện pháp/công cụ hành chính, khuyến khích, xử phạt,…

Đồng thời, tôi cũng muốn nhấn mạnh việc cần đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức để mọi người, mọi tầng lớp, các cấp quản lý, doanh nghiệp và người dân hiểu tầm quan trọng của việc VN tham gia Thỏa thuận, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhựa cũng như xử lý ô nhiễm chất thải nhựa.

Bên cạnh đó, cần thực hiện nghiêm Luật BVMT và các văn bản hướng dẫn, các chỉ thị, kế hoạch hành động liên quan đến ô nhiễm nhựa, chất thải (không cần đợi đến khi Thỏa thuận được ký kết mới thực hiện). Thực tế chúng ta đã cam kết tại các diễn đàn và đang nỗ lực thực thi các cam kết này.

Trân trọng cảm ơn Ông!

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Tham gia thỏa thuận toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa: Việt Nam cần chuẩn bị kỹ lưỡng các nguồn lực
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO