Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên phát biểu tại cuộc họp |
Báo cáo tại cuộc họp, bà Nguyễn Thị Cúc – đại diện Công ty CP tư vấn triển khai công nghệ mỏ - địa chất (đơn vị lập đề án) cho biết: Đối với đề án thăm dò khoáng sản đá vôi làm nguyên liệu sản xuất xi măng tại khu vực K36 xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, tập thể tác giả đã tiến hành công tác khảo sát thực địa, thu thập tài liệu địa chất và các tài liệu kinh tế - xã hội của khu vực xin cấp phép thăm dò và các khu mỏ lân cận.
Đề án đã tổng hợp và sử dụng các thông tin địa chất khoáng sản có liên quan đến khu vực thăm dò để lựa chọn tổ hợp phương pháp và mạng lưới bố trí công trình thăm dò, khối lượng các hạng mục công tác thăm dò dự kiến trong đề án là hợp lý và phù hợp với đối tượng thăm dò.
Mặc dù tài liệu thu thập trên khu vực xin cấp giấy phép thăm dò còn hạn chế nhất định, nhưng tập thể tác giả đã tiến hành khảo sát thực địa và đã trực tiếp thi công nhiều phương án thăm dò. Vì vậy, đề án này bảo đảm tính hợp lý và có độ tin cậy cao, chắc chắn thi công sẽ hiệu quả và đạt mục tiêu trữ lượng đề ra (mục tiêu tổng trữ lượng ở cấp 121 + 122 là 140 triệu tấn).
Đối với đề án thăm dò khoáng sản đá sét làm nguyên liệu xi măng tại khu vực T51, T52 Núi Nghè, thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam nhằm đánh giá chất lượng, tính trữ lượng đá sét nguyên liệu sản xuất xi măng porlăng PC40, PC50. Mục tiêu tổng trữ lượng ở cấp 121+122 là 3.400 ngàn tấn, trong đó cấp 121 bảo đảm yêu cầu.
Đề án tập trung tiến hành công tác trắc địa địa hình, đưa và hoàn nguyên công trình thăm dò; đo vẽ bản đồ địa chất khu mỏ, kết hợp nghiên cứu địa chất thủy văn, địa chất công trình và điều kiện khai thác mỏ trên diện tích thăm dò; thi công công trình thăm dò (hào tuyến, khoan) nhằm khống chế thân đá sét dưới sâu kết hợp lấy các loại mẫu để đánh giá chất lượng và tính trữ lượng đá sét nguyên liệu sản xuất xi măng porlăng.
Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên - Chủ tịch Hội đồng thẩm định đề án thăm dò khoáng sản và các thành viên Hội đồng cũng như đơn vị tư vấn đề án nhất trí 2 mỏ trên thuộc loại nhóm mỏ II. Trên cơ sở đó, Thứ trưởng yêu cầu rà soát, cân đối, chỉnh sửa mạng lưới cho phù hợp, đặc biệt tỷ lệ trữ lượng cấp 121 để trình phê duyệt.
Theo Thứ trưởng Trần Quý Kiên, việc nghiên cứu, tiếp thu và tham khảo các tài liệu mỏ lân cận rất quan trọng đối với 2 đề án này. Bên cạnh đó, cũng cần rút kinh nghiệm từ các mỏ khác để có thông tin khoan chính xác nhất. Kết thúc cuộc họp, Thứ trưởng Trần Quý Kiên và các thành viên Hội đồng thông qua dự kiến trữ lượng của 2 mỏ, đồng thời yêu cầu đơn vị tư vấn sớm hoàn thiện các đề án trình Hội đồng phê duyệt.