“VIỆT NAM ĐẠT MỨC PHÁT THẢI RÒNG BẰNG 0 VÀO NĂM 2050” - NHỮNG CAM KẾT MẠNH MẼ VÀ THUYẾT PHỤC CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CHÍNH PHỦ - THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH ĐÃ ĐƯỢC DƯ LUẬN QUỐC TẾ ĐÁNH GIÁ CAO TRONG HỘI NGHỊ COP26 DIỄN RA TẠI VƯƠNG QUỐC ANH, THÁNG 11/2021. SỰ CHUẨN BỊ TỐT, ĐI ĐÚNG DÒNG XU THẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM ĐÃ TẠO CẢM HỨNG CHO CÁC QUỐC GIA, GÓP PHẦN QUAN TRỌNG VÀO THÀNH CÔNG CỦA COP26 - HỘI NGHỊ QUAN TRỌNG NHẤT VỀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (BĐKH) TOÀN CẦU NHỮNG NĂM QUA. ĐÂY LÀ MỘT TRONG NHỮNG ĐIỂM SÁNG TRONG NỖ LỰC CỦA CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ CỦA NGÀNH TN&MT TRONG NĂM 2021, MỘT NĂM ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ LÀ KHÔNG ÍT KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC DO DIỄN BIẾN PHỨC TẠP CỦA DỊCH BỆNH COVID-19, CỦA THIÊN TAI, BĐKH TRÊN TOÀN THẾ GIỚI.

Với vai trò là cơ quan thường trực ban công tác đàm phán của Việt Nam về BĐKH, ngay sau hội nghị, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, chính quyền các địa phương tổ chức triển khai các hoạt động cụ thể để thực hiện các mục tiêu hội nghị COP26 đưa ra... đó là một trong những nội dung quan trọng được người đứng đầu ngành TN&MT - Bộ trưởng Trần Hồng Hà chia sẻ với Báo TN&MT ngay trước thềm Xuân Nhâm Dần 2022.

tile1(1).jpg

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, năm 2021 với những diễn biến khó lường do dịch bệnh Covid-19 và BĐKH tác động lên tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đối mặt và giải quyết những thách thức này, cùng với Đảng, Chính phủ, nhân dân cả nước, Ngành TN&MT đã đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào việc hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ trưởng có thể cho biết những kết quả nổi bật, những giải pháp tạo nên sự chuyển biến tích cực đó?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Chúng ta vừa trải qua một năm hết sức đặc biệt. Thiên tai dưới tác động của BĐKH và sự bùng phát dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội, làm ngưng trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, trở thành tình trạng khẩn cấp của nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu.

Khắc phục khó khăn, bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội, sự chỉ đạo điều hành sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, ngành, đặc biệt là nỗ lực, quyết tâm vào cuộc của các địa phương, Ngành TN&MT đã chủ động, sáng tạo, hành động quyết liệt, hiệu quả với quyết tâm cao nhất, tập trung thực hiện mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch vừa thực hiện các mục tiêu lớn của Ngành.

box1.jpg

Nhiều chủ trương, chính sách pháp luật quan trọng được tổng kết, đánh giá (Nghị quyết số 19 về đất đai, Nghị quyết số 02 về khoáng sản, Tổng kết thi hành và sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, Luật Tài nguyên nước) để đổi mới, hoàn thiện, tạo nền tảng và động lực cho phát triển trong giai đoạn mới theo các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT), ứng phó với BĐKH được hoàn thiện, đồng bộ, giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với BVMT; chặn đứng xu thế gia tăng ô nhiễm, từng bước cải thiện chất lượng môi trường, phục hồi các hệ sinh thái; thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong thập kỷ phát triển bền vững.

Trình Quốc hội Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021-2025; trình Chính phủ ban hành các quy định giải quyết ngay các vướng mắc từ thực tiễn, khơi thông, giải phóng các nguồn lực tài nguyên đảm bảo đáp ứng các điều kiện đầu vào liên tục của nền kinh tế (quỹ đất, tài nguyên nước, khoáng sản...), đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng, các cân đối lớn.

Cải cách hành chính được đẩy mạnh, cắt giảm gần 40% thủ tục hành chính (TTHC), giảm thời gian thực hiện từ 20-85 ngày đối với các thủ tục về môi trường. Rà soát, đề xuất bãi bỏ, đơn giản hóa 153/178 (đạt 85%) TTHC liên quan đến hoạt động kinh doanh; dự kiến tiết kiệm được 131,6 tỷ đồng/năm chi phí tuân thủ TTHC, chiếm tỷ lệ 21,9% trên tổng chi phí. Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục đầu tư, thích ứng linh hoạt với các tác động của đại dịch Covid-19. Cung cấp 100% TTHC trên môi trường mạng, trong đó 80,4% ở cấp độ 4. Có 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện liên thông thủ tục đất đai với các tổ chức tín dụng trong thanh toán nghĩa vụ tài chính kết nối tới Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Trước các tác động ngày càng cực đoan, khó lường của BĐKH, Ngành đã chủ động tham mưu cho Chính phủ các giải pháp chiến lược, cam kết mạnh mẽ, hết sức thực tiễn trong giải quyết thách thức chung lớn nhất của toàn cầu. Qua đó, mở ra nhiều cơ hội chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính cho ứng phó với BĐKH, đặc biệt là các dòng tín dụng, đầu tư cho hạ tầng ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng.

Trong đại dịch, đội ngũ cán bộ khí tượng thủy văn đã nỗ lực vượt khó để cho ra các bản tin dự báo thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất, kinh doanh, phòng, chống giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Kết quả của những nỗ lực, quyết tâm, đổi mới, sáng tạo của Ngành đã được cụ thể hóa bằng các chỉ số đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá của người dân, doanh nghiệp cùng các chỉ tiêu đạt được qua thực tiễn.

Chuyển dịch hơn 20 nghìn ha đất, đáp ứng yêu cầu về đất đai cho triển khai các dự án hạ tầng, thu hút, đón nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Nguồn thu từ đất từ năm 2012 đạt trên 172,25 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,2% tổng thu ngân sách nội địa, cao gấp 3,5 lần năm 2015, đưa tổng thu từ đất đai trong giai đoạn 2016-2021 lên hơn 1,05 triệu tỷ đồng. Nguồn thu từ tài nguyên nước ước đạt khoảng 5.900 tỷ đồng, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 5.715 tỷ đồng, đóng góp ngân sách, nguồn lực cho phục hồi kinh tế, phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Lợi thế về biển đang được phát huy, các địa phương có biển đã trở thành khu vực phát triển năng động, thu hút nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo động lực phát triển, mở cửa, hội nhập quốc tế, hình thành và phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp (KCN) gắn với hình thành chuỗi đô thị ven biển.

Hoàn thành vượt chỉ tiêu về môi trường như: tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom xử lý tại khu vực đô thị đạt khoảng 94,71%; tỷ lệ các KCN có hệ thống nước thải tập trung đạt 90,69%; đã thực hiện mô hình xử lý rác thải theo hình thức đốt rác phát điện thay cho chôn lấp và đang triển khai 8 dự án với công suất xử lý 11.100 tấn/ngày, công suất phát điện đạt 157MW. Triển khai 1.600 trạm quan trắc tự động kiểm soát 80% số lượng các cơ sở có nguy cơ cao về ô nhiễm để hoạt động hiệu quả, đóng góp cho tăng trưởng. Tỷ lệ các cơ sở vi phạm pháp luật về môi trường giảm 4% so với năm 2020.

Từ phía người dân, qua khảo sát độc lập cho thấy, sự hài lòng tăng đều qua các năm. Năm 2021, tỷ lệ người dân hài lòng về dịch vụ công về đất đai, môi trường tăng 4,14%; tỷ lệ doanh nghiệp phản ánh sự phiền hà trong thực hiện TTHC giảm 7%; chi phí không chính thức khi thực hiện các TTHC về đất đai giảm 4% (theo Báo cáo PCI). Tỷ lệ người dân quan ngại về môi trường giảm từ 8,85% năm 2019 xuống còn 4,03%. Bộ TN&MT xếp thứ 5 trong số các Bộ, ngành, đạt chỉ số tăng về cải cách hành chính.

Trên bình diện thế giới, các chỉ số tích cực về môi trường đã đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam lên vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 37 bậc so với năm 2016 (Năm 2016 là năm đầu tiên Liên Hợp Quốc xếp hạng phát triển bền vững (SDG) cho toàn cầu).

tile2-pict1.jpg

Phóng viên: Năm 2021 chúng ta đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong công tác BVMT, ứng phó với BĐKH, đặc biệt là thành công tại Hội nghị COP26. Trong bức tranh với nhiều gam màu xám 2021, đây có thể coi là một điểm sáng khi Việt Nam được đánh giá là quốc gia tạo cảm hứng cho quốc tế trong Hội nghị này. Chúng ta đã hoàn thành cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH (UNFCCC) ngay trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp. Để thực hiện các nội dung cam kết tại Hội nghị COP26, với vai trò là Cơ quan Thường trực Ban công tác đàm phán của Việt Nam về BĐKH, Bộ đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, chính quyền các địa phương tổ chức, triển khai các hoạt động cụ thể nào để thực hiện các mục tiêu Hội nghị COP26 đưa ra, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Chúng ta thực sự đã truyền cảm hứng và có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng, trong đó có việc đưa vấn đề ứng phó với BĐKH và các cam kết của Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris vào Luật BVMT năm 2020, Nghị định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn; xây dựng các quy định thực hiện giảm nhẹ, thích ứng với BĐKH…

Thực tế, các vấn đề ứng phó với BĐKH đưa vào Luật, vào Nghị định đã được chuẩn bị trên cơ sở Gói Thỏa thuận khí hậu Katowice đã được thông qua năm 2018 tại COP24. Do đó, các điểm mới trong Gói Thỏa thuận khí hậu Glasgow lần này như cơ chế thị trường các-bon sẽ được tiếp tục nội luật hóa để xây dựng thị trường các-bon nội địa của Việt Nam hoàn thành vào năm 2025, thực hiện thí điểm và đi vào hoạt động chính thức từ năm 2028. Các quy định trên cũng là cơ sở pháp lý để huy động toàn dân thực hiện ứng phó với BĐKH, đúng như phát biểu của Thủ tướng Chính phủ tại COP26, vấn đề toàn cầu phải có các tiếp cận toàn cầu; vấn đề tác động đến toàn dân thì toàn dân phải tham gia ứng phó.

Trên tinh thần đó, ngay sau Hội nghị COP26, Chính phủ đã Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam. Ban Chỉ đạo cũng đã họp phiên đầu tiên ngay sau đó để triển khai các công việc thực tế. Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ đưa cam kết mạnh mẽ tại COP26 đi vào hiện thực cuộc sống.

box2.jpg

Bộ TN&MT đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo sớm ban hành Nghị định quy định giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn; danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính; hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với BĐKH cấp quốc gia... để triển khai thực hiện.
Song song với đó, các Bộ, ngành, địa phương cần rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan phù hợp với mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050; tích cực, chủ động tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực triển khai Thỏa thuận Paris và các cam kết được Thủ tướng Chính phủ tuyên bố tại COP26.

Về phía Bộ TN&MT, Bộ sẽ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các đối tác phát triển xây dựng Đề án về Nhiệm vụ, giải pháp đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26 về BĐKH; thành lập Ban Chỉ đạo để đề xuất cơ chế, chính sách, pháp luật, quy hoạch, thúc đẩy cải cách TTHC, tạo môi trường thuận lợi và tận dụng các cơ hội huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển hạ tầng BĐKH, phát triển năng lượng tái tạo...

Ngoài ra, Bộ cũng sẽ phối hợp với Bộ Quốc phòng và các Bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai điều tra khảo sát biển phục vụ quy hoạch phát triển điện gió ngoài khơi gắn với Quy hoạch không gian biển quốc gia; triển khai áp dụng các công cụ định giá các-bon, bao gồm thuế các-bon và phát triển thị trường các-bon trong nước; tuyên truyền, nâng cao nhận thức, năng lực cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân để tham gia các cơ chế thị trường, phi thị trường. Xây dựng Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, Kế hoạch triển khai Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất…

tile3-pict3-box3.jpg

Phóng viên: Bộ trưởng có thể chia sẻ thêm về những khó khăn, thách thức cũng như cơ hội của Việt Nam khi thực hiện các cam kết mà chúng ta đã tham gia?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Với tầm nhìn chiến lược, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã kịp thời nắm bắt xu thế thời đại về phát triển các-bon thấp, giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu, qua đó gửi đi tín hiệu mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về con đường phát triển của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. Điều đó, đã giúp chúng ta có thể tiếp cận được với sự dịch chuyển các dòng vốn tín dụng, đầu tư toàn cầu, cũng như đáp ứng được sự thay đổi về “luật chơi” mới về thương mại, kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên, để thực hiện được những cam kết trên còn có rất nhiều việc phải làm. Trước hết, rà soát lại các Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã và đang được xây dựng của các Bộ, ngành, địa phương để điều chỉnh phù hợp với lộ trình đưa phát thải ròng của Việt Nam về “0” vào năm 2050.

Đồng thời, để nắm bắt được các cơ hội từ sự dịch chuyển các dòng vốn tín dụng, đầu tư phát triển của thế giới, nhất là từ các định chế tài chính, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp đa quốc gia, chúng ta cần phải rà soát, có những giải pháp đột phá trong việc đơn giản hóa TTHC, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để hợp tác phát triển và thực hiện các dự án về chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính với các nước phát triển có tiềm năng về kinh tế, công nghệ như Hoa Kỳ, EU, Vương quốc Anh, các nước G7, các nước Bắc Âu,… trong đó có nhiều nước có quan hệ rất tốt đẹp và là những nhà đầu tư lớn tại Việt Nam.

Tăng cường phổ biến, tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp hiểu được những cơ hội, lợi ích lâu dài từ việc tham gia các sáng kiến toàn cầu về giảm phát thải khí nhà kính cũng như những thách thức trong ngắn hạn về chuyển đổi năng lượng, chuyển từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo. Đây là việc cần phải thực hiện có lộ trình phù hợp để từng bước thay đổi tâm lý vì lợi ích trước mắt, bỏ qua lợi ích lâu dài còn ăn sâu vào nếp nghĩ, cách làm của một bộ phận trong xã hội…

Từ thực tế nguồn lực tài chính cho thích ứng với BĐKH còn rất hạn chế, kể cả nguồn lực trong nước đòi hỏi chúng ta phải chủ động có các cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút sự tham gia đầu tư của khối doanh nghiệp vào các dự án thích ứng với BĐKH. Đặc biệt phải chuẩn bị nguồn nhân lực trong nước thật tốt để đáp ứng việc áp dụng các công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến.

Có thể nói khó khăn, thách thức là không nhỏ, tuy nhiên, tôi tin tưởng rằng với quyết tâm cao nhất của các cấp lãnh đạo và sự ủng hộ của xã hội, sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế... sẽ là “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” dẫn tới thành công.

tile4.jpg

Phóng viên: Bộ trưởng từng khẳng định, thông qua cam kết tại COP26, Việt Nam đã đi đúng “dòng chính” của xu thế phát triển "xanh" toàn cầu cùng với các nước phát triển có tiềm năng về kinh tế, công nghệ cao. Trong nước, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT. Bộ trưởng có thể cho biết, chúng ta đã, đang và sẽ tổ chức, hướng dẫn triển khai như thế nào để Nghị định và Luật BVMT sớm đi vào cuộc sống?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Để thực hiện các quy định của Luật và Nghị định, Bộ TN&MT đã ban hành các Thông tư theo thẩm quyền. Các văn bản này đã bảo đảm các quy định, hướng dẫn cần thiết để triển khai Luật BVMT. Tuy nhiên, để đưa ngay các chính sách của Luật đi vào cuộc sống, tôi cho rằng cần phải có sự vào cuộc quyết liệt của các địa phương, trong đó tập trung vào các hoạt động chính sau đây:

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nội dung, chính sách mới của Luật BVMT và văn bản hướng dẫn thi hành đến nhân dân và cán bộ quản lý các cấp, đặc biệt là các quy định mới như giấy phép môi trường, phân loại chất thải tại nguồn, thực hiện kinh tế tuần hoàn...; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm công tác BVMT, ứng phó với BĐKH và các lĩnh vực có liên quan; nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của người dân trong tuân thủ Luật BVMT.

box4.jpg

- Rà soát, cập nhật, bổ sung chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên cơ sở các quy định của Luật BVMT; rà soát, cập nhật, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật môi trường địa phương, bảo đảm phù hợp với trình độ kỹ thuật, công nghệ, mức độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, hài hòa với quy định của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới;

- Nâng cao trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức trong giải quyết TTHC về môi trường, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, công khai, minh bạch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; xử lý nghiêm hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Chủ động rà soát, sàng lọc, phân loại các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường theo quy định của Luật BVMT để có biện pháp kiểm soát, giám sát chặt chẽ, không để xảy ra ô nhiễm, sự cố môi trường;

- Khẩn trương xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về môi trường, cơ sở dữ liệu quốc gia về BĐKH, hướng tới phát triển nền tảng số, kinh tế số về môi trường, BĐKH; hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường của Bộ, ngành, cấp tỉnh bảo đảm đồng bộ, tích hợp, kết nối, liên thông với hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia.

- Rà soát các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cần kiểm soát chặt chẽ về môi trường thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật và Nghị định để thực hiện các biện pháp kiểm soát phù hợp, bảo đảm yêu cầu về BVMT.

Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan và các địa phương để hướng dẫn, triển khai các quy định mới của Nghị định nhằm đưa các chính sách, quy định mới đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu quả công tác BVMT trong tình hình mới.

tile5-pict4(1).jpg
Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cùng Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ Bùi Minh Châu trao cây tượng trưng cho các đoàn viên thanh niên thể hiện sự quyết tâm của tuổi trẻ trong việc triển khai Chương trình trồng cây ngành Tài nguyên môi trường hưởng ứng chương trình một tỉ cây xanh của Thủ tướng Chính phủ.
tile5-pict4(2).jpg

Phóng viên: Trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính, Việt Nam cũng đang nỗ lực và nhanh chóng chuyển đổi nền kinh tế từ nâu sang xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn. Bộ trưởng có thể cho biết, Bộ sẽ tạo lập những cơ chế, chính sách nào để góp phần thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh tế này?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Đây là sự chuyển đổi cần thiết. Phát triển kinh tế tuần hoàn là thể hiện trách nhiệm của quốc gia trong giải quyết những thách thức toàn cầu do ô nhiễm môi trường, BĐKH, đồng thời nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh tế tuần hoàn giúp tận dụng được nguồn nguyên vật liệu đã qua sử dụng thay vì tiêu tốn chi phí xử lý; giảm thiểu khai thác tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên; hạn chế tối đa chất thải, khí thải ra môi trường.

Để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, vừa qua chúng ta đã hoàn thiện thể chế với việc ban hành Luật BVMT 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó:

box5.jpg

Quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất trong việc thu hồi, tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; phát triển công nghiệp môi trường, thị trường hàng hóa và dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện môi trường…; quản lý dự án theo vòng đời, thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường (phát thải và công nghệ) tương đương với nhóm các quốc gia tiên tiến trong khu vực.

Thực hiện các giải pháp để chuyển đổi mô hình kinh tế như: điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, thủy điện; xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ dựa trên các tiêu chí tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, giảm thiểu chất thải.

Chú trọng ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch, thiết kế sản xuất, thiết kế sản phẩm để tăng cường kết nối chuỗi sản xuất tuần hoàn. Lựa chọn một số ngành, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thực hiện theo mô hình kinh tế tuần hoàn như: công nghiệp giấy, sản xuất sắt, thép, nhiệt điện, quản lý nước theo chu trình. Phát triển các đô thị, KCN, khu chế xuất, trung tâm nhiệt điện theo mô hình tuần hoàn.

Bộ TN&MT sẽ tiếp tục tăng cường tuyên truyền rộng rãi trong toàn xã hội về yêu cầu thực tiễn, vai trò, ý nghĩa, lợi ích và tầm quan trọng của phát triển kinh tế tuần hoàn, trong đó, cộng đồng doanh nghiệp và người dân đóng vai trò trung tâm.

Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, lấy chuyển đổi số và ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm động lực để phát triển kinh tế tuần hoàn.

Phát huy nội lực, tranh thủ hỗ trợ quốc tế để thực hiện các cam kết của Việt Nam; khuyến khích, huy động cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tăng cường đầu tư vào phát triển kinh tế tuần hoàn.

tile6-pict5(1).jpg
Bộ trưởng Ký kết JMC với Nhật.
tile6-pict5(2).jpg

Phóng viên: Trong năm 2022, các mục tiêu chính của Ngành TN&MT là gì, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Ngành TN&MT đặt quyết tâm cao thực hiện các mục tiêu theo phương châm “Kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới, hội nhập, hiệu quả” với các trọng tâm ưu tiên:

Trước hết, tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế, trong đó trọng tâm là xây dựng, trình Quốc hội Dự án Luật Đất đai (sửa đổi); xây dựng Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về định hướng Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tổng kết đánh giá và lập hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật Địa chất và Tài nguyên khoáng sản. Trình ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản dưới Luật giải quyết ngay các vướng mắc đặt ra từ thực tiễn qua rà soát, đánh giá của các địa phương. Ban hành hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn tiệm cận các nước tiên tiến trong khu vực.

Thứ hai, đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển tài nguyên số, dữ liệu lớn như đất đai, thông tin địa lý dữ liệu quan trắc, dữ liệu siêu viễn thám... Mục tiêu trong năm 2022, phát triển vận hành hệ thống thông tin đất đai (MPLIS), cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia. Chỉ đạo điều hành và giải quyết hồ sơ công việc được thực hiện hoàn toàn trên môi trường điện tử.

box6.jpg

Thứ ba, cắt giảm, đơn giản hóa 10-15% TTHC, tiếp tục phân cấp thẩm quyền đi đôi với kiểm tra giám sát, kiểm soát việc thực thi; cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đối với các thủ tục đủ điều kiện và được tích hợp với Cổng Dịch vụ công quốc gia; 63/63 tỉnh thành phố kết nối liên thông thủ tục thanh toán nghĩa vụ tài chính với cơ quan thuế, tổ chức tín dụng...

Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi, thượng tôn pháp luật; tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm pháp luật, thất thoát, lãng phí trong quản lý TN&MT; tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ để giải quyết tình trạng nhũng nhiễu, hành dân gây bức xúc trong dư luận. Tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm khiếu kiện trong lĩnh vực TN&MT. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng
môi trường đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu lực hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực TN&MT.

Thứ năm, hoàn thành việc lập, phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia và các lưu vực sông; Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; Quy hoạch không gian biển quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quy hoạch tổng thể khai thác sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045; các quy hoạch về môi trường. Triển khai đồng bộ Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm 2021-2025.
Thứ sáu, phát huy, giải phóng các nguồn lực tài nguyên. Tập trung rà soát tình trạng lãng phí đất đai, đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh, các dự án có vướng mắc sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán,... trên phạm vi cả nước; lập các tổ công tác liên ngành của Trung ương và địa phương xử lý, giải quyết đưa quỹ đất vào sử dụng hiệu quả, giải phóng nguồn lực cho phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị, xã hội. Xây dựng các giải pháp chiến lược tổng thể về an ninh tài nguyên nước, bao gồm các chủ trương, đối sách trong chia sẻ tài nguyên nước xuyên biên giới. Phát triển các ngành kinh tế biển, hành lang kinh tế ven biển, điện gió ngoài khơi, khai hoang, lấn biển.

Thứ bảy, triển khai hiệu quả Luật BVMT, chặn đà và từng bước đảo ngược xu thế suy thoái về môi trường, các hệ sinh thái; phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong thập kỷ mới. Cải thiện các chỉ số thành phần môi trường; 91% KCN, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung; 96% chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; 30% rác thải sinh hoạt được xử lý theo mô hình đốt rác, phát điện, tái chế thay cho chôn lấp.
Thứ tám, hiện đại hóa công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, giám sát BĐKH với 50% số trạm quan trắc khí tượng thủy văn được tự động hóa để từng bước hình thành mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn hiện đại và tự động hoàn toàn, kết nối, chia sẻ số liệu với các nước trong khu vực, trên thế giới; 100% thiên tai bão, lũ, được giám sát, dự báo, cảnh báo kịp thời, đủ độ tin cậy; hình thành mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn kết nối trong lưu vực sông Mê Công; tăng cường năng lực giám sát môi trường, khí tượng thủy văn.

Thứ chín, thực hiện giải pháp chiến lược, đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách ứng phó với BĐKH; thúc đẩy cải cách TTHC, tạo môi trường thuận lợi, chủ động tận dụng các cơ hội hợp tác, tiếp cận các dòng tài chính, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và đón đầu các dòng vốn đầu tư xanh vào hạ tầng ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng phục vụ chuyển đổi mô hình phát triển. Đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với BĐKH; nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thích ứng cho các khu vực dễ bị tổn thương trước những rủi ro, tác động của BĐKH.

Đồng thời, tiếp tục triển khai công tác điều tra cơ bản, phấn đấu 31% diện tích vùng biển được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỷ lệ bản đồ 1:500.000; 75% diện tích đất liền được lập bản đồ địa chất khoáng sản ở tỷ lệ 1:50.000; trên 90% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành điều tra tài nguyên đất.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

pict6.jpg

LAN ANH thực hiện
Ảnh: KHƯƠNG TRUNG
Trình bày: HIỀN NHÂN

Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
[Emagazine] Việt Nam gây ấn tượng mạnh mẽ với dư luận quốc tế tại COP26
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO