Việt Nam được dệt thêu bởi hơn 2.360 con sông - tạo nên sự đa dạng cảnh sắc, con người và văn hóa độc đáo. Thế nhưng, sông ngòi - những mạch sống của các hệ sinh thái đang bị đầu độc bởi con người. Ngày nay, khó có thể kiếm được một con sông nào giữ được vài nét nguyên sơ.
Nghịch lý trên sông
Với 63 tỉnh, thành, vấn đề ô nhiễm nước luôn nổi cộm. Chất lượng nước mặt của các sông, ngồi, kênh, rạch, đặc biệt là ở các vùng đô thị và vùng công nghiệp bị suy thoái tới mức gần như biến chất và có tác động nguy hiểm đối với đời sống con người cũng như sinh vật thủy sinh. Phù sa màu mỡ ngày nào đang phải nhường chỗ cho muôn nẻo nguồn thải.
Các loại nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện, nước thải công nghiệp… không qua xử lý, tàn phá nghiêm trọng môi sinh, ảnh hướng trực tiếp tới dòng chảy cũng như tuổi thọ của dòng sông. Hơn nữa, do không có nguồn nước bổ sung, độ dốc nhỏ khiến tốc độ chảy chậm, nên các dòng sông không có khả năng tự làm sạch, độc tố tích tụ lâu ngày, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước mặt và cả nguồn nước ngầm. Cùng với đó, đô thị hóa mãnh liệt và thiếu tầm quy hoạch khiến việc xử lý rác thải, nước thải vượt khỏi tầm kiểm soát.
Việt Nam hiện có 108 lưu vực sông, với 3.450 sông, suối, tổng lượng trung bình hàng năm khoảng 830 tỷ m3. Để bảo vệ chất lượng nước trên các sông, suối, ngay từ năm 2006, Bộ TN&MT đã triển khai 7 chương trình quan trắc môi trường nước các Lưu vực sông như: sông Nhuệ - Đáy (5 đợt); sông Cầu (5 đợt); sông Đồng Nai - Sài Gòn (4 đợt); sông Mã - sông Chu (3 đợt); sông Hồng - Thái Bình (3 đợt); sông Vu Gia - Thu Bồn (3 đợt) và nước các sông vùng Tây Nam Bộ (3 đợt). Từ đó, đưa ra đánh giá và giải pháp để bảo vệ, cải thiện chất lượng nước trên các sông.
Bằng chứng là đến nay, chỉ có 12,5% lượng nước thải đô thị được xử lý trước khi xả vào các nguồn nước. Trong 326 khu công nghiệp cả nước, có 220 khu xây dựng hệ thống nước thải tập trung, xử lý được khoảng 71% lượng nước thải phát sinh. Đáng lưu ý là, ở 587 cụm công nghiệp, chỉ có 9,4% có hệ thống xử lý nước thải. Phần lớn nước thải của các gia đình trong hơn 5.000 làng nghề chưa được xử lý, nước thải công nghiệp và sinh hoạt đều được xả thẳng vào hệ thống thóat nước mặt.
Câu chuyện thủy điện được hay mất trên các dòng sông luôn là chủ đề nóng? Hàng nghìn dự án thủy điện đã được phê duyệt để cắm lên các con sông lớn nhỏ. Hầu như tất cả các dòng sông đều đang và sắp có đập. Người ta xây đập sản xuất điện bất chấp mọi quy luật vận hành của tự nhiên, các hệ sinh thái, thậm chí cả quy luật kinh tế. Chỉ hơn 20 năm, chúng ta khai thác trên 80% tiềm năng kỹ thuật, gần 1.000 công trình thủy điện lớn nhỏ được xây dựng, làm thay đổi cơ bản hệ sinh thái, môi trường ở hầu hết các lưu vực sông, cùng với những lợi ích do các công trình đưa lại, những tác động của nó đến con người, môi trường, sinh thái cũng vô cung lớn, không dễ khắc phục.
Chưa kể suốt thời gian dài tiếng kêu không thấu, tình trạng hút cát trái phép vẫn tiếp diễn công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Hàng trăm con tàu “trơ gan” inh ỏi suốt ngày đêm, vòi rồng sục sạo, ngụp lặn khoét sâu, nắn dòng đến cạn kiệt. “Cát tặc” vơ vét đục khoét moi móc “cấu xé” sông, rồi chất đống dọc đôi bờ.
Nghịch lý nguồn nước ở Việt Nam là quá nhiều, quá ít và quá bẩn. Nắng nóng, mưa nhiều và tập trung vào những tháng mùa mưa dẫn đến lũ lụt, gây nhiều tổn hại trước hết và nhiều nhất đối với người nghèo. Hạn hán, thiếu nước trở nên thường xuyên, đặc biệt ngày càng trầm trọng vào những tháng mùa khô.Tác động ô nhiễm nước đến sức khỏe con người được dự báo đến năm 2035 sẽ làm suy giảm đến 3,5% GDP hàng năm.
Sông Sài Gòn nhìn từ trên cao. Ảnh: Minh Tú |
Cần hội đủ sức mạnh, nguồn lực và đồng thuận
Lưu vực sông phân bố đều trên 8 vùng sinh thái của Việt Nam, có ý nghĩa sống còn đối với 54 cộng đồng các dân tộc Việt Nam, do vậy, chúng ta cần thực hiện quản lý bền vững lưu vực sông trong bối cảnh nguồn tài nguyên nước của Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức là nhận định chung của nhiều nhà khoa học.
Muốn làm được điều đó, chúng ta cần quản lý hiệu quả việc khai thác khoáng sản, cát, bùn, chất thải rắn, chất thải nguy hại nhằm bảo vệ sự trong sạch của lưu vực sông; kiểm soát thường xuyên chặt chẽ việc vận hành và hoàn phục các cảnh quan sinh thái đúng với quy định của báo cáo đánh giá tác động môi trường, môi trường chiến lược sau khi vận hành, khai thác các công trình thủy điện - khai thác khoáng sản lưu vực sông lớn...
Hằng năm, các Ủy ban Lưu vực sông nhóm họp (do Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố luân phiên làm Chủ tịch Ủy ban Lưu vực sông) để đánh giá hiện trạng và bàn giải pháp bảo vệ môi trường các lưu vực sông; các tỉnh trên các lưu vực sông đều có chương trình hành động để bảo vệ môi trường lưu vực sông. Đây là điều đáng mừng, song về lâu dài, chúng ta phải tìm ra mô hình tổ chức quản lý lưu vực sông phù hợp, hội tụ đủ sức mạnh, nguồn lực và sự đồng thuận của cả cộng đồng.
Bên cạnh đó, cần xây dựng và đẩy mạnh triển khai thực hiện quy hoạch lưu vực sông, quy hoạch phân vùng, khai thác sử dụng nước; tăng cường các hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nước, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường nước; thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế trong quản lý và bảo vệ môi trường nước, đặc biệt, đối với vấn đề xuyên biên giới…
Để những mạch nguồn không biến mất trên bản đồ và luôn chảy nuôi dưỡng môi sinh, rất cần những hành động mạnh mẽ của cộng đồng từ hôm nay.
Ngày Quốc tế Hành động vì các dòng sông được thông qua bởi những người tham gia Hội nghị Quốc tế đầu tiền về Con người bị ảnh hưởng bởi các con đập, vào tháng Ba năm 1997 tại Curitiba, Brazil. Các đại diện từ 20 quốc gia đã quyết định rằng Ngày Quốc tế Hành động vì các dòng sông diễn ra vào ngày 14/3 - Ngày Brazil hành động chống lại các con đập lớn.