Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên phát biểu tại cuộc họp |
Tại cuộc họp, Hội đồng đã tập trung thảo luận và đóng góp ý kiến về báo cáo kết quả thăm dò nâng cấp trữ lượng trong phạm vi giấy phép khai thác số 2760/GP-BTNMT ngày 31/12/2008 khu trung tâm mỏ than Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; báo cáo kết quả thăm dò đá metacarbonat làm ốp lát khu vực Suối Giàng, xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái; báo cáo kết quả thăm dò đá sét làm nguyên liệu xi măng tại thôn Đông Hòa, xã Đồng Tâm và thôn Liên Hồng 2, xã Khoan Dụ, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; báo cáo kết quả thăm dò quặng sericit tại khu vực bản Suối Lềnh, xã Hang Chú, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
Báo cáo kết quả thăm dò nâng cấp trữ lượng khu trung tâm mỏ than Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, ông Vũ Anh Tuấn – đại diện Công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường – Vinacomin – đơn vị tư vấn cho biết: Tính đến 30/9/2019, khối lượng thăm dò tổng hợp trong báo cáo là 67.850m/114 lỗ khoan. Kết quả thi công các công trình thăm dò tổng hợp trong báo cáo đã cơ bản đảm bảo độ tin cậy về tài liệu kỹ thuật, đáp ứng được mục tiêu, có cơ sở tin cậy để tổng hợp báo cáo địa chất làm cơ sở cho việc nghiên cứu phát triển các Dự án đầu tư khai thác theo quy hoạch phát triển ngành than.
Tổng trữ lượng 122 nâng cấp từ các khối tài nguyên cấp 333 trong phạm vi giấy phép khai thác số 2760/GP-BTNMT ngày 31/12/2008 khu trung tâm mỏ than Mông Dương là 26.179 nghìn tấn, trong đó trữ lượng cấp 122 đối với các vỉa than đã cấp phép khai thác là 22.458 nghìn tấn; trữ lượng cấp 122 đối với các vỉa than chưa cấp phép khai thác là 3.721 nghìn tấn.
TS Lê Văn Lượng – Phó Chánh Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia đánh giá, báo cáo trên đã tổng hợp được tài liệu thu thập trong quá trình thăm dò, đánh giá được chất lượng và tính được trữ lượng than trong phạm vi giấy phép khai thác đã cấp. Trữ lượng cơ bản đạt mục tiêu đề án đặt ra. Một phần tài nguyên cấp 333 đã bị khai thác, được đơn vị tư vấn thống kê trong báo cáo. Đối với tài nguyên cấp 333 còn lại là 7.078 nghìn tấn, phân bổ ở phần rìa các vỉa than và phần dưới sâu, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) – chủ đầu tư cần có kế hoạch thăm dò nâng cấp.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên – Phó Chủ tịch Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia và các thành viên Hội đồng nhất trí thông qua báo cáo với trữ lượng than nêu trên.
Báo cáo kết quả thăm dò đá metacarbonat làm ốp lát khu vực Suối Giàng, xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, ông Đỗ Thành Trung – đại diện Công Ty Cổ Phần Tư Vấn Đầu Tư Và Xây Dựng Mỏ, đơn vị tư vấn cho biết: Tổng trữ lượng đá metacarbonat làm ốp lát, mỹ nghệ cấp 122 là 278.905 m3, trong đó, đá có cỡ khối >0,4m³ là 184.353 m3; đá có cỡ khối từ 0,1-0,4m³ là 94.552 m3; khoáng sản đi kèm đá làm vật liệu xây dựng thông thường là 350.306 m3; hệ số đất bốc là 1,34 m³ đất, đá phủ/1,0 m³ đá ốp lát, mỹ nghệ.
Ông Phạm Văn Hưng - Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia nhận định, báo cáo trên đã thu thập, tổng hợp đầy đủ tài liệu thăm dò, xác định được đặc điểm địa chất khu mỏ, cũng như quy mô, chất lượng của đá metacarbonat làm ốp lát và mỹ nghệ trong diện tích thăm dò. Trữ lượng vượt trên 200% so với mục tiêu đề án đặt ra.
Hội đồng đã thông qua báo cáo với con số trữ lượng được phê duyệt đã tính trong báo cáo. Đồng thời, Hội đồng yêu cầu chủ đầu tư (Công Ty Cổ Phần Khai Thác Đá Và Xây Dựng Đại Tượng Phật Tây Thiên) có văn bản giải trình liên quan đến loại đá có cỡ khối nhỏ hơn 0,1 m3 để làm vật liệu xây dựng thông thường.
Ông Vũ Anh Tuấn – đại diện Công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường – Vinacomin báo cáo tại cuộc họp |
Về kết quả thăm dò đá sét làm nguyên liệu xi măng tại thôn Đông Hòa, xã Đồng Tâm và thôn Liên Hồng 2, xã Khoan Dụ, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình, ông Hoàng Quang Nam – đại diện Công Ty Cổ Phần Tư Vấn Tài Nguyên Môi Trường Và Đầu Tư Khai Khoáng, đơn vị tư vấn báo cáo: Tổng trữ lượng toàn mỏ ở trạng thái tự nhiên (cấp 121 +122) là 14.482 nghìn tấn, trong đó trữ lượng ở cấp 121 là 2.681 nghìn tấn, trữ lượng ở cấp 122 là 11.801 nghìn tấn. Trữ lượng tại Khu I là 8.688 nghìn tấn và trữ lượng tại Khu II là 5.794 nghìn tấn. Tài nguyên cấp 333 toàn mỏ là 218 nghìn tấn;
Theo kết quả kiểm tra, thẩm định của Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia, báo cáo đã tổng hợp đầy đủ các kết quả thăm dò, đánh giá được chất lượng và tính được trữ lượng đá sét làm nguyên liệu xi măng trong diện tích thăm dò. Hội đồng đã xem xét, phê duyệt báo cáo và trữ lượng đã tính để Công ty Cổ phần Xi măng Thành Thắng Group (chủ đầu tư) chuẩn bị các thủ tục đưa mỏ vào khai thác.
Báo cáo kết quả thăm dò quặng sericit tại khu vực bản Suối Lềnh, xã Hang Chú, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La, ông Hoàng Văn Đồng – đại diện Công ty CP Tư vấn Đầu tư và TMQT Việt Séc, đơn vị tư vấn cho biết, sản phẩm quặng sericit sau tuyển gồm hai loại tinh quặng đạt tiêu chuẩn làm nguyên liệu cho ngành sản xuất men, xương sứ gốm, sơn theo yêu cầu thị trường. Tổng trữ lượng quặng sericit tự nhiên cấp 121+122 khoảng 1.036 nghìn tấn, trong đó trữ lượng cấp 121 là hơn 249 nghìn tấn, trữ lượng cấp 122 là hơn 786 nghìn tấn; tài nguyên 333 là 496,70 nghìn tấn.
Thứ trưởng Trần Quý Kiên và các thành viên Hội đồng nhất trí thông qua trữ lượng trên. Tuy vậy, Thứ trưởng cho rằng chủ đầu tư (Công ty Cổ phần sericit Hà An Sơn La) và đơn vị tư vấn cần lưu ý nghiên cứu sử dụng sản phẩm là cát thạch anh để nâng cao giá trị kinh tế của mỏ, bảo đảm yêu cầu sử dụng triệt để tài nguyên, kết hợp bảo vệ môi trường.