Bộ trưởng cho biết: Về căn cứ pháp lý, Trong Khoản 2 và Khoản 3 Điều 49 của Luật Đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể về thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Cụ thể như sau:
Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ủy viên BCH Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Minh Quang trả lời chất vấn tại Quốc hội khóa XIII sáng 18/11. Ảnh: Nguyễn Đình Nam |
Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.
Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 03 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.
Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Còn quy định của Nghị định cũng rất rõ ràng. Cụ thể tại khoản 6 Điều 19 của của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2015 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai quy định người sử dụng đất có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng đã có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong Khoản 5 Điều 20 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2015 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai.
Ngoài ra, tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 22 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2015 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai về việc xử lý, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 2014.
Về phương hướng giải quyết, theo Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang, căn cứ vào quy định nêu trên thì việc giải quyết cấp Giấy chứng nhận được thực hiện như sau:
Trường hợp người sử dụng đất dã sử dụng đất ổn định trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp thì người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận theo quy định.
Trường hợp người sử dụng đất đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có Thông báo thu hồi đất để thực hiện quy hoạch thì không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Trường hợp người sử dụng đất tự ý sử dụng (như lấn chiếm, tự khai hoang,…) sau khi đã có quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp dược cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền sử dụng đất phải rà soát cụ thể từng trường hợp để xem xét cấp Giấy chứng nhận.
Về chỉ đạo thực hiện, Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang khẳng định: “Trường hợp thực tế tại địa phương có tình trạng như Đại biểu nêu, Bộ TN&MT sẽ chỉ đạo kiểm tra, làm rõ và yêu cầu địa phương tổ chức thực hiện theo đúng quy định của pháp luật”.
Hải Ngọc(ghi)