Vượt qua thách thức trong nửa nhiệm kỳ 2016 - 2021
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Trần Hồng Hà ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong 6 tháng đầu năm 2018 nói riêng và nửa nhiệm kỳ 2016 - 2021 nói chung.
Khái quát về tình hình thực hiện nhiệm vụ thời gian qua, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, trong nửa đầu nhiệm kỳ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức trong suốt quá trình phát triển của đất nước trong thời gian vừa qua.
Vượt qua mọi khó khăn thách thức đó, theo Bộ trưởng, trong nửa nhiệm kỳ vừa qua, Bộ TN&MT đã có những đổi mới hết sức cơ bản và toàn diện. Từng lĩnh vực, từng đơn vị đã có sự đổi mới, phát huy sức sáng tạo của các cán bộ, công chức người lao động để hiệu quả công việc ngày càng được nâng lên.
Thông qua thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ ban hành nhiều Kế hoạch, Chương trình, Nghị quyết về phát triển đất nước theo hướng bền vững, chú trọng công tác bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu… Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, những kết quả của nửa đầu nhiệm kỳ 2016 - 2021 là tiền đề quan trọng để ngành Tài nguyên và Môi trường tiếp tục ổn định và phát triển trong thời gian tới.
Về tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác 6 tháng đầu năm 2018, Báo cáo của Văn phòng Bộ TN&MT nêu rõ: Trong 6 tháng đầu năm Bộ TN&MT đã theo sát tình hình thực tiễn, chủ động chỉ đạo triển khai các giải pháp phù hợp để tăng cường bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật. Kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả; xây dựng nền hành chính kỷ luật, kỷ cương, liêm chính, kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Trong công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, Bộ đã trình và được Quốc hội thông qua Luật đo đạc và bản đồ; tập trung xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều về quy hoạch của Luật đất đai, Luật BVMT, Luật khoáng sản, Luật tài nguyên nước, Luật khí tượng thủy văn, Luật đa dạng sinh học, Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương trình Bộ Chính trị báo cáo sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khoá XI và triển khai việc sơ kết 05 năm tình hình thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khoá XI. Tập trung chỉ đạo rà soát, đánh giá tình hình thi hành và triển khai việc sửa đổi bổ sung Luật đất đai, Luật BVMT. Trình Chính phủ 04 Nghị định, 01 Đề xuất xây dựng Nghị định ; trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo 10 Quyết định, ban hành theo thẩm quyền 01 Thông tư...
Trong 6 tháng đầu năm 2018, Bộ đã triển khai 42 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 56 tổ chức và 02 cuộc giám sát hoạt động Đoàn thanh tra theo kế hoạch. Cũng trong 6 tháng đầu năm Bộ đã tiếp 121 lượt công dân với tổng số 181 người, trong đó có 08 lượt đoàn đông người giảm 61 lượt, 341 người so với năm 2017. Bộ đã thẩm tra, xác minh 18/20 vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ (13 vụ việc năm 2017), ban hành quyết định giải quyết 06 vụ việc. Nội dung khiếu nại chủ yếu liên quan đến việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ về đất, tranh chấp đất đai; một số trường hợp tố cáo và khiếu nại liên quan đến ô nhiễm môi trường.
Công tác cải cách hành chính được tập trung chỉ đạo với 3 trọng tâm là cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy và hiện đại hóa nền hành chính. Bộ TN&MT đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bãi bỏ một số điều của các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực TN&MT, trong đó đề xuất bãi bỏ và đơn giản hóa 99/163 điều kiện đầu tư kinh doanh, chiếm khoảng 60%. Công bố phương án cắt giảm cắt giảm 38/74 hàng hóa, sản phẩm phải kiểm tra chuyên ngành và bãi bỏ, đơn giản hóa 13/13 TTHC liên quan đến kiểm tra chuyên ngành.
Cũng trong nửa đầu của năm 2018, Bộ TN&MT đã tiếp tục đẩy nhanh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý từng bước thực hiện giảm giấy tờ trong điều hành, hiện đại hóa nền hành chính. Triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho 82 TTHC, trong đó có 67 dịch vụ công mức độ 3, 15 dịch vụ công mức độ 4 (có 11 TTHC kết nối với Cổng thông tin Một cửa quốc gia). Kết quả chỉ số CCHC của Bộ đã có những bước tiến đáng kể, kết quả xếp hạng năm 2017 là 10/19 các Bộ, cơ quan ngang Bộ (tăng 6 bậc so với năm 2016); xếp hạng về mức độ ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ điện tử năm 2017 đứng thứ 5 trong các Bộ, ngành...
Ban hành kiến trúc chính phủ điện tử ngành TN&MT phiên bản 2.0
Về những nhiệm vụ trọng tân trong 6 tháng cuối năm 2018, nhằm đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong chương trình công tác năm, chương trình hành động của ngành thực hiện Nghị quyết số 01 của Chính phủ, trong 6 tháng cuối năm 2018… Bộ TN&MT yêu cầu các đơn vị cần tập trung chỉ đạo, tăng cường công tác phối hợp, chủ động nắm bắt tình hình, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc từ địa phương cơ sở để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm như:
Tập trung hoàn thành việc xây dựng trình 57/71 đề án, văn bản quy phạm pháp luật còn lại trong Chương trình công tác, Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2018 của Bộ;
Rà soát điều chỉnh kế hoạch thanh tra năm 2018 phù hợp với những vấn đề phát sinh từ thực tiễn; tập trung vào những vấn đề bức xúc của nhân dân, dư luận xã hội. Xác định sớm nội dung, đối tượng thanh tra, kiểm tra để hướng dẫn các địa phương xây dựng kế hoạch thanh tra năm 2019 để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, tránh trùng chéo giữa Trung ương và địa phương. Ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ TN&MT và Bộ Công Thương trong thanh tra khoáng sản. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tập trung giải quyết các vụ việc Thủ tướng Chính phủ giao và các vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ, các vụ việc tồn đọng kéo dài;
Tập trung thực hiện Kế hoạch cải cách hành chính để nâng cao chỉ số Par Index, PAPI, chỉ số về mức độ ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ điện tử; thực hiện cung cấp Dịch vụ công trực tuyến đối với tất các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ. Hoàn thiện cơ chế tương tác giữa Bộ với người dân, doanh nghiệp; cơ chế để người dân đánh giá chất lượng cung cấp các dịch vụ công. Bảo đảm cơ bản 100% các hồ sơ công việc (không mật) được xử lý trên môi trường mạng. Tăng cường vai trò của Tổ kiểm tra trong việc đôn đốc tình hình triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Bộ;
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ, tiến độ giải ngân. Thực hiện nghiêm kỷ luật ngân sách: kiên quyết cắt giảm, điều chuyển vốn các dự án chậm tiến độ để điều chuyển cho các dự án, nhiệm vụ cấp bách của ngành, các dự án có khả năng giải ngân tốt;
Thực hiện gắn nghiên cứu với chuyển giao, thực hiện cơ chế đấu thầu đặt hàng để khoa học công nghệ đóng góp vào sự phát triển của ngành. Tăng cường phối hợp nghiên cứu KH&CN giữa các đơn vị trong và ngoài Bộ, lấy một số Viện và các Trường đại học trực thuộc Bộ làm nòng cốt để hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh về TN&MT. Tập trung xây dựng các quy chuẩn, tiêu chuẩn đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng;
Thúc đẩy, mở rộng các diễn đàn đối thoại chính sách, tham vấn các nhà đầu tư, tài trợ, phục vụ trao đổi thông tin pháp luật về TN&MT. Mở rộng các mối quan hệ song phương, đa phương và liên khu vực với các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ nước ngoài; chủ động hợp tác và hội nhập, đặc biệt là về KHCN, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và vận động, thu hút, thực hiện và quản lý có hiệu quả nguồn hỗ trợ nước ngoài phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH;
Hoàn thành xây dựng, ban hành kiến trúc chính phủ điện tử ngành TN&MT phiên bản 2.0. Xây dựng và triển khai hệ thống thông tin báo cáo tổng hợp trung ương đến địa phương để phục vụ chỉ đạo điều hành. Chia sẻ, kết nối thông tin chỉ đạo, điều hành giữa Bộ với Chính phủ, và các Sở TN&MT. Nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin; thực hiện việc đánh giá chấm điểm ứng dụng công nghệ thông tin của các đơn vị thuộc Bộ và các Sở TN&MT…
Tại cuộc họp, các Thứ trưởng và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ đã nghe, thảo luận về các báo cáo chuyên đề như: Công tác kế hoạch, tài chính, đầu tư và kết quả giải ngân; tình hình phê duyệt nhiệm vụ đặc thù, nhiệm vụ thường xuyên; Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp; Công tác tổ chức cán bộ, cải cách hành chính và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu đơn vi của Bộ; Tình hình phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; Báo cáo tình hình thực hiện Chương trình công tác, các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo Bộ giao…
Cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển ngành
Kết luận tại Hội nghị, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, nhiệm vụ chiến lược lâu dài hiện nay đối với ngành Tài nguyên và Môi trường trong đó những lĩnh vực như Đất đai, Môi trường, Biến đổi khí hậu, Biển và hải đảo, Tài nguyên nước... cần phải đổi mới tư duy, quan điểm mục tiêu, chủ trương, chính sách pháp luật để đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với thể chế kinh tế thị trường hiện đại đã được xác định trong các Nghị quyết của Đảng.
Bộ trưởng đề nghị cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển ngành để làm cơ sở cho xây dựng các kế hoạch phát triển, lộ trình, giải pháp, nhiệm vụ cho phát triển ngành trong dài hạn; xây dựng lộ trình đầu tư phát triển, đào tạo nguồn nhân lực; tập trung rà soát đánh giá tiềm năng tài nguyên, đổi mới trong công tác lập quy hoạch với tầm nhìn dài hạn phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước để phát huy được nguồn lực tài nguyên cho phát triển.
Đổi mới trong công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản; các Viện, cơ quan nghiên cứu phải tự nâng cao năng lực để tự chủ, nâng cao năng lực trong đề xuất các chính sách, công nghệ mới có tính đột phá cho ngành, tiến tới chấm dứt tình trạng các sản phẩm nghiên cứu, các kết quả điều tra không đóng góp cho thực tiễn. Trường đào tạo cán Bộ TN&MT cần có chiến lược dài hạn, đề án rõ ràng để phát triển nguồn nhân lực cho ngành; các nội dung đào tạo phải cụ thể hóa và đưa ra những tiêu chuẩn hóa đáp ứng được với nhu cầu thực tiễn.
Xây dựng kế hoạch hiện đại hóa hệ thống hạ tầng đặc biệt là thông tin dữ liệu, phấn đấu xây dựng ngành, Bộ, tiên phong, hiện đại trong quản lý kỹ thuật ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường năng lực cán bộ, hiện đại hóa CNTT để đáp ứng được với nhu cầu trong thời kỳ mới. Xây dựng và triển khai hệ thống thông tin báo cáo từ Trung ương đến địa phương; kết nối thông tin chỉ đạo, điều hành giữa Bộ với các Sở TN&MT.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh, trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng, do đó cần phải xây dựng các hàng rào kỹ thuật, quy chuẩn tiêu chuẩn, triển khai các chính sách pháp luật phải hài hòa với quốc tế. Học hỏi những kinh nghiệm tiên tiến của các đối tác quốc tế và áp dụng, đào tạo lại cho các cán bộ Việt Nam.
Ngoài ra, đối với lĩnh vực đất đai, Bộ trưởng nhấn mạnh, cần phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để loại bỏ những vấn đề tồn đọng như hiện nay về quy hoạch, khiếu kiện, tranh chấp đất đai, lợi ích nhóm... Bộ trưởng đề nghị Tổng cục QLĐĐ tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, tập trung lấy ý kiến chuyên gia nhà khoa học trong nước và quốc tế, mời các lãnh đạo trung ương, địa phương tham dự và trao đổi đối với từng nhóm vấn đề dự kiến sửa đổi, bổ sung trong Luật đất đai để từ đó tập trung chỉ đạo giải quyết tình trạng lãng phí đất đai; đẩy nhanh tiến độ rà soát, sắp xếp đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường; rà soát tình hình sử dụng quỹ đất công ích. Tháo gỡ vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với các dự án trọng điểm.
Đối với lĩnh vực môi trường, Bộ trưởng đề nghị Tổng cục Môi trường rà soát, điều chỉnh hoặc xây dựng mới các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Đổi mới tư duy kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường; làm rõ trình độ, công nghệ, quy chuẩn hiện nay về bảo vệ môi trường đã tiếp cận được các quy chuẩn, tiêu chuẩn của quốc tế hay chưa.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng cho biết hiện trạng ô nhiễm môi trường hiện nay cũng ảnh hưởng đến suy thái đa dạng sinh học rất lớn và đa dạng sinh học của Việt Nam đang phải hứng chịu những rủi ro đặc biệt. Do đó, cần triển khai tổng điều tra, đánh giá, phân loại nguồn thải; xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn thải. Kiểm soát các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; cần phân công công việc và gắn nhiệm vụ tới địa phương, cá nhân và phải chịu trách nhiệm tới những vấn đề ô nhiễm, nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế song hành với BVMT, phát triển bền vững.
Đối với lĩnh vực Khí tượng thủy văn, Bộ trưởng đề nghị cần phải huy động các nguồn lực bao gồm nguồn lực xã hội để hiện đại hóa mạng lưới KTTV; nâng cao năng lực, chất lượng dự báo, cảnh báo, tăng thời hạn dự báo bão, áp thấp nhiệt đới mưa lũ trên diện rộng; xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về lĩnh vực khí tượng thủy văn để có thể ngoài công tác phục vụ chuyên môn có thể xây dựng cơ chế định mức chia sẻ dữ liệu tới các đối tác khác phục vụ cho sản xuất, xã hội hóa các hoạt động KTTV phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Với lĩnh vực Biển và Hải đảo, Bộ trưởng đề nghị Tổng cục biển và hải đảo lập quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ của cả nước; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên môi trường biển và hải đảo; Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020...
Ngoài ra, Bộ trưởng đề nghị Tổng cục Biển và Hải đảo phải phối hợp với Tổng cục Môi trường để cùng đưa ra những chiến lược, giải pháp xử lý vấn đề rac thải nhựa đại dương, ô nhiễm môi trường biển; tăng cường công tác hợp tác quốc tế để nhận sự hỗ trợ từ chính sách, kinh nghiệm, công nghệ, sự đầu tư của các đối tác quốc tế giải quyết vấn đề rác thải nhựa như hiện nay.
Bộ trưởng cũng đề nghị Cục quản lý Tài nguyên nước tập trung triển khai, thực hiện việc cấp quyền khai thác tài nguyên nước; điều phối, giám sát, giải quyết các vấn đề liên vùng, liên ngành trong quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước; nghiên cứu đề xuất hợp tác chặt chẽ với các nước trong chia sẻ nguồn nước xuyên biên giới. Theo dõi diễn biến tình hình khai thác nguồn nước tại thượng nguồn các sông lớn chủ động đề xuất các đối sách phù hợp trong ngắn hạn và dài hạn.
Ngoài ra, Bộ trưởng cũng đề nghị tiếp tục duy trì tổ công tác của Bộ trưởng để kiểm tra công tác thực hiện các nhiệm vụ được giao, Bộ trưởng khuyến khích trong tổ công tác sẽ có thành phần của Đoàn thanh niên, Công đoàn Bộ, các thành viên của các đơn vị trực thuộc bộ để có thể kiểm tra chéo lẫn nhau. Bộ trưởng đề nghị công tác báo cáo của tổ công tác phải tiên phong, sáng tạo và áp dụng sử dụng công nghệ thông tin trong công tác hoạt động; quá trình kiểm tra phải đột xuất để có thể đánh giá được chính xác nhất.
Bộ trưởng cũng đề nghị đẩy mạnh công tác tổ chức truyền thông, phổ biến các cơ chế chính sách, chủ trương lớn về tài nguyên và môi trường ngay từ khi chuẩn bị, ban hành và tổ chức triển khai; truyền thông về các điểm sáng, kinh nghiệm tốt về quản lý TN&MT, cải cách hành chính để các địa phương học tập, nhân rộng./.