(TN&MT) - 248,7 tỷ đồng tiền mua đất tại khu dự án khu nhà ở Viet Inc (Vân Canh, huyệnHoài Đức, TPHà Nội) của hơn 300 bị hại đã bị các đối tượng giăng bẫy chiếm đoạt.
Lòng vòng bán dự án ma
Ngày 4/7/2008, tỉnh Hà Tây (cũ) đã phê duyệt quy hoạch 1/2000 dự án khu nhà ở cao cấp Viet Inc (Vân Canh, huyệnHoài Đức, TPHà Nội) và giao cho Công ty CP Đầu tư tài chính và bất động sản Việt (Công ty bất động sản Việt) lập quy hoạch dự án.
Chỉ trong vòng 7 ngày sau đó (tức ngày 14/7/2008), UBND tỉnh Hà Tây đã phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 cho dự án này và đồng thời giao cho Công ty bất động sản Việt làm chủ đầu tư.
Việc phê duyệt “thần tốc” dự án này thể hiện rõ bản chất doanh nghiệp đã “chạy” dự án vào thời điểm chót khi Hà Tây có quyết định về Hà Nội. Điều này đã gây hệ lũy lớn đối với các nhà đầu tư mua đất tại dự án Viet Inc.
Sau khi Công ty bất động sản Việt có được tờ giấy “khai sinh” dự án Viet Inc, công ty này không triển khai việc thực hiện dự án, không thực hiện thu hồi đất, không giải phóng mặt bằng. Năm 2009, Công ty bất động sản Việt đã chuyển nhượng cho Công ty CP đầu tư thương mại và xây dựng Hưng Hải (Trần Thái Tông, quậnCầu Giấy, TPHà Nội) thu về số tiền 57,6 tỷ đồng (chiếm 90% vốn góp). Công ty Hưng Hải lại tiếp tục bán cho Công ty TST (quậnCầu Giấy, TPHà Nội) với giá bán cao gấp 5 lần với giá 295 tỷ đồng, Công ty Hưng Hải mới thu về 248,7 tỷ đồng.
Theo phản ánh của khách hàng, mặc dù Công ty TST biết đây là dự án chưa đầy đủ về mặt pháp lý nhưng đã cố tình vẽ dự án trên giấy, thông đồng với hai công ty môi giới bất động sản là Công ty Hương Đất, Tú Minh để lừa người mua nhà. Thời điểm đó, giá bán đất tại dự án này là 35 triệu đồng/m2 nhưng giá bán trong hợp đồng hợp tác đầu tư là 19 triệu đồng/m2, giá trị cả lô đất 80m2 là 1,52 tỷ đồng. Số tiền chệnh lệch 1,28 tỷ đồng được khách hàng trả cho 2 công ty phân phối, Công ty TST.
“Khi bán đất, nhân viên môi giới đều khẳng định dự án đã giải phóng xong 90% mặt bằng và chủ đầu tư đang tiến hành làm hạ tầng để giao đất cho dân vào năm 2012. Tuy nhiên, đã 7 năm trôi qua, khu đất dự án hiện vẫn đang là ruộng rau. ” – bác Nguyễn Minh Thuế - người mua nhà nói.
Còn theo bà Đoàn Châu Hương, trong quá trình mua bán, đã có nhiều tình tiết bất thường. Đó là khi bàn giao hợp đồng, Công ty TST đã đóng dấu, niêm phong hợp đồng và yêu cầu khách hàng 1 năm sau mới được mở ra.
“Tôi nghĩ trong thời gian chưa hoàn thành thủ tục đầu tư, họ sợ vi phạm pháp luật nếu khách hàng chuyển nhượng hợp đồng cho người khác nên chúng tôi thấy yêu cầu này có lý và đành chấp nhận sau 1 năm mới mở ra. Tuy nhiên, sau 1 năm đi đòi đất, không thấy dự án triển khai, chúng tôi mới tá hỏa biết mình đã sập bẫy lừa đảo. Chúng tôi đã nhiều lần đến tìm lãnh đạo Công ty TST để đòi tiền nhưng họ nói đã chuyển toàn bộ số tiền 248,7 tỷ đồng cho Công ty Hưng Hải giữ”, bà Hương cho biết.
Khuất tất việc thu hồi số tiền 248,7 tỷ đồng
Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại dự án khu nhà ở Viet Inc đã được Tòa án nhân dân TP Hà Nội xét xử vào tháng 3/2019. Theo đó, tòa tuyên hai lãnh đạo Công ty TST Phạm Mạnh Cường (SN 1952)– Giám đốc chịu mức án chung thân và Nguyễn Thị Minh Thương (1964) – Trưởng ban QL dự án, 20 năm tù giam. Buộc 2 bị cáo và Công ty TST phải có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại số tiền 139 tỷ đồng (số tiền thực tế trên hợp đồng).
Tuy nhiên, vấn đề các bị hại quan tâm nhất đó là số tiền 248,7 tỷ đồng của họ đã nộp cho Công ty TST lại không thể hiện trong bản án và không được tòa tuyên thu hồi để trả cho các bị hại.
Trả lời PV sáng ngày 23/7, thẩm phán Phạm Năng Thành – người trực tiếp xét xử vụ án cho biết, trong quá trình điều tra, cơ quan công an đã tách khoản tiền này ra do nó liên quan đến vụ án dân sự, Công ty Hưng Hải kiện Công ty TST đòi khoản tiền 40 tỷ đồng. Vụ án này đã được tòa án quận Nam Từ Liêm xét xử. Do vậy, phiên tòa xét xử vụ án hình sự đã không đưa vào.
Theo Luật sư Đào Thị Liên – Công ty Luật Tiền Phong – Luật sư bào chữa cho các bị hại trong vụ án này, cơ quan CSĐT công an Thành phố Hà Nội và Viện Kiểm sát đã có những văn bản tố tụng khẳng định số tiền 248,7 tỷ đồng mà Công ty TST thu được của khách hàng và chuyển đến Công ty Hưng Hải thông qua 34 phiếu chi tiền mặt cho bà Nguyễn Thị Minh Thương để nộp trực tiếp cho Hưng Hải.
Các cơ quan tố tụng khẳng định, số tiền này Công ty TST đã thu của các bị hại và do lừa đảo mà có được. Nó là vật chứng của vụ án này. Tuy nhiên, rất tiếc trong phiên tòa sơ thẩm, bản án sơ thẩm đã không đề cập đến nó và xử đúng theo quy định của Luật tố tụng hình sự và Luật hình sự.
Tôi cho rằng, nếu làm đúng các cơ quan tố tụng phải ra các biện pháp tư pháp như tịch thu, phong tỏa, kê biên số tiền của Công ty Hưng Hải đang chiếm giữ thì mới kịp thời đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Số tiền này phải trả lại cho các bị hại. Việc chậm đưa ra các biện pháp tư pháp sẽ gây thiệt hại lớn cho các bị hại”, Luật sư Đào Thị Liên nhấn mạnh.
Những dấu hỏi còn bỏ ngỏ
Theo tìm hiểu của PV, vấn đề mấu chốt của vụ việc này chính là hợp đồng hợp tác đầu tư giữa Công ty Hưng Hải và Công ty TST. Việc chuyển nhượng một dự án chưa đủ tính pháp lý có được pháp luật công nhận hay không? Và khoản tiền thu được từ việc chuyển nhượng này có hợp pháp hay không? Sau khi chuyển nhượng, hai bên đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nhà nước không?
Tuy nhiên, khi điều tra vụ án này, việc xác minh của Cơ quan công an đối với những đơn vị liên quan như Cơ quan thuế, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và Đầu tư…đều được bỏ ngỏ.
Tại bản án thể hiện, ngày 1/1017 và 17/3/2017, Cơ quan CSĐT đã có văn bản đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp thông tin, tài liệu bao gồm việc thực hiện hợp đồng hợp tác đầu tư và chuyển quyền hợp tác đầu tư của Công ty Hưng Hải cho Công ty TST để thực hiện dự án có đúng quy định của pháp luật hay không, bản chất việc chuyển nhượng có phải mua bán dự án hay không. Nhưng, đến nay vẫn không nhận được văn bản trả lời.
Thêm vào đó, đối với việc thực hiện nghĩa vụ thuế của Công ty Hưng Hải trong việc hợp tác kinh doanh dự án, cơ quan công an cũng có văn bản gửi Bộ Tài chính để trưng cầu giám định việc chấp hành nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước của Công ty bất động sản Việt, Công ty Hưng Hải. Nhưng, đã hết thời hạn, các cơ quan CSĐT vẫn không nhận được văn bản trả lời của các cơ quan chức năng.
Các bị hại của vụ án cho rằng, các tài liệu xác minh còn thiếu trên đây đã gây ảnh hưởng lớn đến việc xét xử, không đảm bảo tính khách quan của vụ án. Vì vậy, sẽ tiếp tục khiếu nại đến tòa án cấp cao hơn.