Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Tiếp tục phát huy vai trò của Đại biểu Quốc hội thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững

18/12/2018 09:56

(TN&MT) - Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân cho biết, năm 2015 là dấu mốc quan trọng đối với Trái Đất, ngôi nhà chung của chúng ta với việc Liên hợp quốc thông qua Chương...

 

(TN&MT) –Tại phiên Thảo luận sáng 18/12 với chủ đề Nhận định những thách thức đối với Việt Nam trong thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững – khuyến nghị và giải pháp trong khuôn khổ Hội nghị “Quốc hội và các mục tiêu phát triển bền vững” do Quốc hội Việt Nam phối hợp với Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) tổ chức tại Đà Nẵng, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân đã có bài phát biểu nhấn mạnh vai trò của Đại biểu Quốc hội thực hiện Mục tiêu số 13.

18 12 thutruong1
Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân phát biểu tại phiên họp


Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân cho biết, năm 2015 là dấu mốc quan trọng đối với Trái Đất, ngôi nhà chung của chúng ta với việc Liên hợp quốc thông qua Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững với 17 Mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu.

Cũng tại thời điểm này, theo Tổ chức Khí tượng Thế giới, nồng độ khí nhà kính trong khí quyển đã vượt qua ngưỡng 400 phần triệu thể tích. Trong khi đó giới hạn an toàn của chỉ số này là 350 phần triệu thể tích. Nhà kinh tế học người Anh Nicholar Stern từng cảnh báo biến đổi khí hậu sẽ làm cho GDP toàn cầu thiệt hại 5-10% khi nhiệt độ tăng 5-6 độ C vào cuối thế kỷ này. Các nước nghèo, các nước đang phát triển sẽ phải chịu tổn thất lớn hơn 10% GDP rất nhiều. Biến đổi khí hậu sẽ trở thành thảm họa đe dọa tới sự tồn tại, phát triển của nhân loại trên Trái Đất nếu không có các giải pháp ứng phó hiệu quả.

Trong bối cảnh đó, bên cạnh việc Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về phát triển bền vững thông qua 17 mục tiêu về phát triển bền vững, cuối năm 2015, lần đầu tiên tại Paris, gần 200 quốc gia đã đồng thuận để đạt được một Thỏa thuận lịch sử, ràng buộc về pháp lý cho tất cả các nước về biến đổi khí hậu sau hơn 20 năm đàm phán kể từ khi Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu được thông qua vào năm 1992.

Thoả thuận Paris là cơ sở để các quốc gia triển khai các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu từ năm 2021 trở đi trong bối cảnh phát triển bền vững, góp phần quan trọng vào việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vữngvề ứng phó với biến đổi khí hậu.

Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu được thông qua với các chỉ tiêu về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và nguồn lực thực hiện. Trải qua 03 năm thực hiện, cùng với các Mục tiêu phát triển bền vững khác, Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu đã được các quốc gia tích cực triển khai và đạt được một số kết quả ban đầu.

Cho đến nay, theo thống kê của Liên hợp quốc, đã 12 quốc gia đang phát triển đã hoàn thành và đệ trình Kế hoạch thích ứng quốc gia (NAP); 184 quốc gia đã phê chuẩn Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và 181 Bên (bao gồm 180 quốc gia cộng với Ủy ban châu Âu) đã đệ trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cho Ban thư ký Công ước Khí hậu.

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Theo kịch bản biến đổi khí hậu của Việt Nam, vào cuối thế kỷ 21, nếu mực nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng từ 10 - 12% dân số Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp và GDP có thể tổn thất khoảng 10% do biến đổi khí hậu. Vì vậy, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều trở ngại, thách thức trong quá trình thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu, bao gồm thách thức từ bối cảnh quốc tế khi biến đổi khí hậu được dự báo vẫn diễn ra phức tạp, khó lường do những cam kết giảm nhẹ phát thải khí nhà kính để thực hiện Thoả thuận chưa đủ để đảm bảo mức tăng nhiệt độ trung bình vào cuối thế kỷ này ở dưới mức 2 độ C.

Bên cạnh đó, quốc tế chưa có cơ chế ràng buộc pháp lý đối với cam kết về đóng góp tài chính, do đó chưa có gì đảm bảo thực hiện thành công cam kết huy động mỗi năm 100 tỷ USD kể từ năm 2020 trở đi cho các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu, cam kết việc hỗ trợ tiếp cận công nghệ xanh miễn phí hoặc chi phí thấp cho các nước đang phát triển như Việt Nam.

Thực tế đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu cho thấy, việc thực hiện trách nhiệm hỗ trợ nguồn lực cho các nước đang phát triển ngày càng mờ nhạt so với trách nhiệm, nghĩa vụ đã được quy định tại Công ước Khí hậu, Thỏa thuận Paris. Đồng thời, những rào cản về đầu tư, thương mại trên thị trường quốc tế do những quy định và yêu cầu rất khắt khe về tiêu chuẩn các-bon trên phạm vi toàn cầu, nhất là đối với các loại sản phẩm, dịch vụ sử dụng nhiều tài nguyên, phát thải các-bon lớn sẽ hình thành.

Nhận định các thách thức đối với Việt Nam trong việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 13 (SDG13) về ứng phó với biến đổi khí hậu, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân cho biết:

Một là, Việt Nam sẽ phải thực hiện các mục tiêu giảm phát thải theo cam kết, chuyển từ phương thức thực hiện tự nguyện như từ trước đến nay sang phương thức bắt buộc thực hiện bắt đầu từ năm 2021 trong khi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cần được duy trì ở mức cao, kéo theo nhu cầu lớn về năng lượng. Đây sẽ là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong điều kiện tiếp tục phải duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao trong khi trình độ công nghệ sản xuất còn thấp, mức tiêu hao năng lượng và tài nguyên còn lớn, nguồn lực còn hạn chế.

Đồng thời, Việt Nam phải giải quyết vấn đề gia tăng phát thải khí nhà kính do năng lượng tái tạo chưa phát triển (hiện chỉ chiếm khoảng 5% tổng năng lượng sơ cấp), trong khi các loại nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu khí… vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn, ước tính điện từ than đến 2030 vẫn chiếm khoảng 50% trong cơ cấu điện năng.

Hai là, biến đổi khí hậu ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, diễn ra nhanh hơn so với dự báo, tác động nặng nề đến người dân và các ngành, lĩnh vực nhạy cảm với khí hậu. Tình trạng khai thác và sử dụng nước, phát triển thủy điện ở các nước trên thượng nguồn sông Hồng, sông Mekong đã và đang có ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tác động này làm trầm trọng thêm các tác động của biến đổi khí hậu như gia tăng lũ lụt, hạn hán và xâm nhập mặn.

Ba là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biến đổi khí hậu chưa đầy đủ, đồng bộ; thiếu hệ thống chỉ tiêu thống kê đánh giá thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu; công tác ứng phó với biến đổi khí hậu thiếu cơ chế điều phối, cơ chế giải quyết vấn đề liên ngành, liên vùng; cơ chế, chính sách chưa tạo được động lực thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp, cộng đồng trong ứng phó với biến đổi khí hậu; việc lồng ghép vấn đề biến đổi khí hậu vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch còn khó khăn do chưa có các quy định, hướng dẫn cụ thể.

Bốn là, nguồn lực dành cho ứng phó với biến đổi khí hậu còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, trong khi nguồn lực tài chính từ hỗ trợ của quốc tế còn chưa rõ ràng; các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu chủ yếu được thực hiện ở cấp độ dự án đơn lẻ khi có sự hỗ trợ của Chính phủ, cộng đồng quốc tế trong từng ngành, lĩnh vực.

18 12 thutruong3
Quang cảnh ngày làm việc thứ 02 của Hội nghị


Thời gian qua, Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã luôn quan tâm, ban hành nhiều chủ trương, chính sách và hành động quan trọng về ứng phó với biến đổi khí hậu để thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu, cụ thể như:

Thứ nhất, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, đảm bảo chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát thải các-bon thấp. Cụ thể, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đồng thời, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật bảo vệ Môi trường năm 2014, trong đó có một Chương riêng về ứng phó với biến đổi khí hậu; và mới đây là Luật Khí tượng Thuỷ văn trong đó cũng có quy định chi tiết về vấn đề biến đổi khí hậu; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 853/NQ-UBTVQH13 về kết quả giám sát và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu ở đồng bằng Sông Cửu Long.

Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu; các Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh; Chương trình mục tiêu về biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh; Kế hoạch triển khai Thoả thuận Paris tại Việt Nam.

Gần đây nhất, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ xem xét ban hành Nghị định về lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của Việt Nam và sắp tới sẽ trình Kế hoạch quốc gia về thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trên phương diện quốc tế, Việt Nam đã sớm gia nhập Công ước Khí hậu, Nghị định thư Kyoto; sớm tham gia và phê duyệt Thoả thuận Paris.

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực sớm đề ra lộ trình, giải pháp thực hiện Thoả thuận Paris phù hợp với bối cảnh, tình hình trong nước, nỗ lực cùng cộng đồng thế giới giải quyết một trong những thách thức to lớn, đe doạ đến sự tồn vong của nhân loại.

Đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam đã cam kết đến năm 2030, bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam sẽ giảm 8% lượng phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường (BAU), và có thể đạt 25% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế.

Thứ hai, đẩy mạnh truyền thông, tuyên truyền sâu rộng về những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra và cơ hội do biến đổi khí hậu mang lại trong các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, các tầng lớp nhân dân, qua đó nâng cao nhận thức tạo sự đồng thuận trong hành động của toàn xã hội về ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ ba, tăng cường triển khai mạnh mẽ hoạt động hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu. Qua đó, Việt Nam đã huy động được nguồn lực quan trọng cho ứng phó với biến đổi khí hậu từ hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cả về tài chính, công nghệ và tăng cường năng lực.

Thứ tư, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu như: xây dựng, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống quan trắc, cảnh báo sớm rủi ro thiên tai; nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông, xây dựng kế hoạch quản lý tài nguyên nước và thích ứng với biến đổi khí hậu các đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng; xây dựng Kế hoạch hành động, giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với tình hình của các Bộ, ngành, địa phương…

18 12 thu truong 2
Phiên thảo luận nhận định những thách thức để phát triển bền vững


Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân kiến nghị Đại biểu Quốc hội Việt Nam và Liên minh nghị viện thế giới tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của mình, đóng góp nhiều hơn nữa vào thực hiện hiện Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, cụ thể là:

Thứ nhất, về xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách về biến đổi khí hậu và liên quan đến biến đổi khí hậu: tăng cường vai trò lập pháp của Quốc hội trong rà soát, ban hành và ban hành bổ sung chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu đảm bảo một hệ thống chính sách và pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, nhất quán, hài hoà với quy định quốc tế và phù hợp với điều kiện Việt Nam; sớm thể chế hóa hệ thống chỉ tiêu thống kê đánh giá thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu làm cơ sở để kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện.

Thứ hai, trong quá trình xem xét, phê chuẩn các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước, các quy hoạch chuyên ngành phải tính toán đặt bối cảnh thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có Mục tiêu phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng, liên lĩnh vực, thậm chí liên khu vực về thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Thứ ba, tăng cường hợp tác với Liên minh nghị viện thế giới cũng như Quốc hội, nghị viện các nước trong việc giám sát việc thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm trong thực thi chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là các trách nhiệm, nghĩa vụ đã nêu tại Công ước Khí hậu, Nghị định thư Kyoto và Thoả thuận Paris, trong đó dành ưu tiên quan tâm đến các nhóm nước đặc biệt dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu như Việt Nam.

Khuyến khích các quốc gia, tuỳ theo trách nhiệm lịch sử, tiềm lực kinh tế, công nghệ có những đóng góp tích cực vào nỗ lực toàn cầu nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Thứ tư, tăng cường vai trò trong phân bổ nguồn lực quốc gia nhằm chủ động về nguồn lực trong thực hiện những đóng góp do Việt Nam đã cam kết theo Thỏa thuận Paris. Đồng thời, hỗ trợ xây dựng và ban hành cơ chế huy động nguồn lực bao gồm cả nguồn tài chính từ khu vực nhà nước và doanh nghiệp ở cả cấp quốc gia và quốc tế, trong đó tập trung khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, của khối doanh nghiệp.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Tiếp tục phát huy vai trò của Đại biểu Quốc hội thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO