Về vấn đề này, cử tri tỉnh Thanh Hóa đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tham mưu trình Chính phủ ban hành văn bản pháp lý quy định việc thu hồi đất nông nghiệp sẽ do Nhà nước thực hiện, tránh tình trạng để doanh nghiệp tự thỏa thuận với người dân, dẫn đến việc chênh lệch trong tiền bồi thường giữa các hộ dân. Đồng thời, Nhà nước xem xét nâng hạn mức đất ở trong thửa đất có vườn ao theo quy định sau khi đất đã được xác định nguồn gốc đất có trước năm 1980 (đất không tranh chấp).
Trả lời cử tri, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, cơ chế thỏa thuận nhận chuyển nhượng để thực hiện dự án đầu tư là một trong những quy định tiến bộ giúp đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người sử dụng đất; giúp Nhà nước tránh phải trực tiếp thu hồi đất của người dân dễ phát sinh khiếu kiện. Vướng mắc hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp đã thỏa thuận được đa số với người sử dụng đất nhưng còn một số trường hợp không thỏa thuận được dẫn đến dự án đầu tư không triển khai được. Vướng mắc nêu trên sẽ được xem xét quá trình sửa đổi Luật Đất đai. Hiện, Bộ đang khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự án luật để trình Chính phủ, Quốc hội.
Hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở
Về hạn mức đất ở trong thửa đất có vườn ao, hiện nay, Điều 103 Luật Đất đai 2013 đã quy định cụ thể về hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở trong thửa đất có vườn ao hình thành trước 18/10/1980.
Cụ thể, đất vườn, ao của hộ gia đình, cá nhân được xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất đang có nhà ở.
Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành trước ngày 18 tháng 12 năm 1980 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai 2013 thì diện tích đất ở được xác định theo giấy tờ đó.
Trường hợp trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật này chưa xác định rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được công nhận không phải nộp tiền sử dụng đất được xác định bằng không quá 5 lần hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 143 và khoản 4 Điều 144 của Luật này.
Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật này mà trong giấy tờ đó ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được xác định theo giấy tờ đó.
Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật này mà trong giấy tờ đó không ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được xác định như sau: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện, tập quán tại địa phương quy định hạn mức công nhận đất ở cho mỗi hộ gia đình phù hợp với tập quán ở địa phương theo số lượng nhân khẩu trong hộ gia đình; Trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định bằng hạn mức công nhận đất ở tại địa phương; Trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định là toàn bộ diện tích thửa đất.
Đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật này mà đất đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì diện tích đất ở được xác định theo mức quy định tại khoản 4 Điều này; trường hợp đất đã sử dụng ổn định kể từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì diện tích đất ở được xác định theo mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 143 và khoản 4 Điều 144 của Luật này.