Siết chặt kiểm soát hoạt động buôn bán các loài ngoại lai tại Việt Nam
Theo Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV), nếu không thắt chặt kiểm soát thị trường buôn bán động vật hoang dã ngoại lai có thể gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng đối với đa dạng sinh học của Việt Nam.
Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) đã ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng của hoạt động buôn bán và quảng cáo động vật hoang dã ngoại lai tại Việt Nam thời gian vừa qua.
Cụ thể, tính riêng từ tháng 1/2022 đến tháng 10/2024, từ thông báo của người dân, ENV đã ghi nhận 471 vụ với 1.759 vi phạm liên quan đến hoạt động quảng cáo, buôn bán 45.307 cá thể ngoại lai. Các loài ngoại lai thường bị buôn bán phổ biến bao gồm: rùa sul-ca-ta, rùa tai đỏ, thằn lằn, rắn, các loài thú nhỏ và vẹt.
Hầu hết các loài này bị nhập lậu từ nước ngoài về Việt Nam hoặc có nguồn gốc từ các cơ sở gây nuôi không được cấp phép và những người chuyên “chơi” sinh vật cảnh.
Theo dữ liệu của ENV, trong số các loài loại lai bị buôn bán trái phép, bò sát chiếm 82%, với 37.048 cá thể rùa, rắn và thằn lằn ngoại lai bị rao bán. Tỷ lệ này với các loài chim là 9% và các loài thú nhỏ khác chiếm khoảng 4% tổng số động vật ngoại lai bị buôn bán.
Rùa tai đỏ và rồng đất Nam Mỹ là hai trong số những loài ngoại lai thường bị buôn bán ở Việt Nam. Trong đó, rùa tai đỏ là một trong những loài xâm hại nhất trên thế giới, đã được đưa vào Danh mục loài ngoại lai xâm hại ban hành kèm theo Thông tư số 35/2018/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Trong khi đó, rồng đất Nam Mỹ cũng là một loài đáng quan ngại khác. Quần thể rồng đất Nam Mỹ đã phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia không phải là khu vực phân bố tự nhiên của loài này. Một trong những quan ngại chính với hoạt động buôn bán loài ngoại lai là khả năng hình thành quần thể tự nhiên khi chúng bị thả ra môi trường hoặc trốn thoát. Điều này có thể đe dọa nghiêm trọng đến sự sống của các loài bản địa khi chúng cạnh tranh với loài bản địa về nguồn thức ăn, môi trường sống và từ đó phá vỡ cấu trúc cũng như sự cân bằng hệ sinh thái.
Vừa qua, đã có ít nhất một cơ sở tại TP.HCM được cấp phép nuôi thương mại rồng đất Nam Mỹ, mặc dù các Cơ quan khoa học CITES Việt Nam chưa xác nhận việc gây nuôi loài này sẽ không ảnh hưởng tiêu cực đến các loài bản địa.
Trong khi đó, tại Đồng Tháp, trong một vụ việc mới đây, thay vì chuyển giao 80 cá thể rồng đất Nam Mỹ và 9 cá thể thằn lằn te-gu bị tịch thu đến trung tâm cứu hộ hoặc vườn động vật, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã bán đấu giá những cá thể này cho chính đối tượng bị phát hiện buôn lậu chúng. Hiện đối tượng đang trong quá trình thực hiện các thủ tục đăng ký mã số cơ sở nuôi.
Một số hành động trên của các cơ quan chức năng đang phản ánh những thách thức lớn mà Việt Nam phải đối mặt trong bối cảnh tình trạng buôn bán trái phép các loài ngoại lai đang gia tăng nhanh chóng. Thiếu các quy định rõ ràng và hệ thống quản lý hiệu quả để kiểm soát sự gia tăng nhanh chóng của thị trường buôn bán sinh vật cảnh ngoại lai và các cơ sở gây nuôi thương mại những loài này là những vấn đề cấp thiết cần phải xử lý.
“Việc cho phép hoạt động buôn bán và gây nuôi thương mại các loài ngoại lai mà thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ sẽ tạo tiền lệ không tốt và gây nhiều khó khăn cho công tác thực thi pháp luật của các cơ quan chức năng,” bà Bùi Thị Hà, Phó Giám đốc ENV cho biết.
Bà Hà cũng cho rằng việc kiểm soát hoạt động buôn bán trái phép loài ngoại lai là rất quan trọng nhằm loại bỏ những rủi ro tiềm ẩn đối với sức khỏe con người. Thế giới đã ghi nhận nhiều đại dịch có nguồn gốc từ động vật hoang dã như AIDS, SARS, cúm A/H5N1, Ebola, bệnh dại và nhiều khả năng là Covid-19.
“Những nguy cơ và rủi ro này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước phải nhanh chóng vào cuộc tăng cường công tác quản lý và giám sát để kiểm soát hoạt động buôn bán các loài ngoại lai đang gia tăng chóng mặt ở Việt Nam ngay khi hoạt động này vẫn còn đang nằm trong tầm kiểm soát. Không ai mong muốn tình trạng này sẽ ngày càng phát triển và trở thành một cuộc khủng hoảng đòi hỏi nhiều thời gian, nguồn lực để giải quyết các tác động của chúng đến đa dạng sinh học, rủi ro đối với sức khỏe con người và sự an toàn của các loài nguy cấp trên toàn cầu”, bà Bùi Thị Hà kết luận.