Theo chỉ đạo, đối với dự án công trình thuộc quy định tại khoản 2, Điều 65 của Luật Khoáng sản, trước khi trình cho phép khai thác khoáng sản trong khu vực dự án, tham mưu trình UBND tỉnh lấy ý kiến chấp thuận bằng văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường theo quy định.
Hoàn thành công tác khoanh định khu vực cấm, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh; dự thảo văn bản của UBND gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định, hoàn thành trước ngày 01/3/2018.
Đối với tổ chức, cá nhân khi lập dự án đầu tư xây dựng công trình; quy hoạch chung đô thị, quy hoạch xây dựng điểm (khu) dân cư nông thôn, trước khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét thẩm định, phê duyệt phải lấy ý kiến các Sở: Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Xây dựng có ý kiến về khoáng sản trong khu vực dự án.
Chủ trì, phối hợp với Cục Thuế tỉnh Quảng Ngãi rà soát, kiểm tra, đánh giá tình hình thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép khai thác khoáng sản; báo cáo UBND tỉnh, đồng thời báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường trước ngày 30/01/2018.
Chỉ đạo các bộ phận chuyên môn của Sở tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường; Đề án cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản; rà soát, kiểm tra thực hiện công tác đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường đối với Giấy phép khai thác khoáng sản hết hiệu lực.
Chủ tịch UBND tỉnh giao các Sở: Xây dựng, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi, UBND các huyện, thành phố phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện công tác quản lý nhà nước về khoáng sản đối với việc thu hồi khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong khu vực dự án đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn tỉnh có liên quan đến lĩnh vực quản lý của các Sở, ngành và của UBND các huyện, thành phố.
Cục Thuế tỉnh Quảng Ngãi thường xuyên rà soát, kiểm tra, chỉ đạo Chi cục thuế các huyện, thành phố đôn đốc các tổ chức, cá nhân được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản thực hiện nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản hàng năm đúng thời hạn quy định (trừ các đơn vị đã có văn bản chỉ đạo gia hạn thời gian nộp tiền cấp quyền của UBND tỉnh) và thực hiện kịp thời, đầy đủ các nghĩa vụ tài chính có liên quan đến hoạt động khai thác khoáng sản. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm (nếu có) theo quy định.
Ngoài ra, liên quan đến việc kiểm tra thực tế hiện trạng khu vực các mỏ cát được UBND tỉnh cấp phép khai thác đang còn hiệu lực để xác định cụ thể trữ lượng cát đã khai thác, trữ lượng thực tế của mỏ cát sau mùa mưa lũ năm 2017, UBND tỉnh đã có ý kiến chỉ đạo tại Công văn số 4821/UBND-NNTN ngày 09/8/2017, tuy nhiên đến nay Sở Tài nguyên và Môi trường vẫn chưa thực hiện hoàn thành. Yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường khẩn trương thực hiện, báo cáo UBND tỉnh đúng thời hạn.
Đối với các mỏ cát thuộc khu vực sông Trà Khúc đoạn qua thành phố Quảng Ngãi (trong đó có mỏ cát thôn Thanh Khiết, xã Nghĩa Hà), yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường khẩn trương chủ trì, phối hợp với Sở Xây dựng, UBND thành phố Quảng Ngãi tổ chức kiểm tra thực tế hiện trạng khu vực các mỏ cát được UBND tỉnh cấp phép khai thác đang còn hiệu lực để xác định cụ thể trữ lượng cát đã khai thác, trữ lượng thực tế của mỏ cát sau mùa mưa lũ năm 2017, làm cơ sở để tổ chức bàn giao khu vực mỏ cát, đảm bảo trữ lượng khai thác không vượt trữ lượng cát trúng đấu giá quyền khai thác hoặc được cấp phép.
Tránh tình trạng mỏ cát “Thạch sanh” tồn tại trên địa bàn tỉnh (không để Doanh nghiệp lợi dụng quy luật tái tạo của mỏ cát là sau mùa lũ về, tại các mỏ cát được bồi đắp lại như hiện trạng ban đầu), gây thất thoát tài nguyên cũng như nguồn thu ngân sách. Hơn thế nữa, nhiều mỏ cát khai thác vô tội vạ, trữ lượng khai thác nằm ngoài tầm kiểm soát, vượt độ sâu, vượt trữ lượng cấp phép gấp nhiều lần, điều này dẫn đến hệ lụy sạt lỡ vùng bờ phía hạ lưu ngày một nghiêm trọng hơn. Thực tế cho thấy, nhiều mỏ cát chỉ cần với thời gian 1 năm đã khai thác đạt độ sâu cho phép, hết trữ lượng được cấp phép, nhưng nhờ cung ứng cát cho các dự án, các bến bãi bán lẻ không xuất hóa đơn, nên trữ lượng thể hiện “trên giấy” vẫn còn (Trữ lượng thể hiện trên Hóa đơn giá trị gia tăng xuất bán cát cho khách hàng ít hơn so với trữ lượng cấp phép), điều này cũng đồng nghĩa là mỏ vẫn được tiếp tục hoạt đồng. Chưa hết, một số mỏ khi hết thời hạn cấp phép nhưng trữ lượng “trên giấy” còn thì vẫn được gia hạn khai thác cho hết trữ lượng trong giấy phép.
Một ông chủ bến bãi bán cát lẻ trên bờ, gần sông Trà Khúc chia sẻ, bán cát cho các công trình xây dựng nhà dân thì họ đâu lấy hóa đơn, một số công trình nhà xây dựng nhà nước thì chúng tôi có xuất hóa đơn, nhưng khối lượng ít chứ khống lượng nhiều thì chủ mỏ họ không chịu xuất đâu, họ xuất hết trữ lượng thì lấy gì khai thác nữa. Chủ mỏ chỉ xuất cầm chừng thôi, xuất cho hợp lệ đầu ra đầu vào thôi. Bất kỳ mỏ nào cũng vậy, nếu họ khai thác khối nào mà xuất hóa đơn khối đó thì chỉ cần nửa năm thì phải làm thủ tục đóng cửa mỏ vì đã khai thác hết trữ lượng. Trường hợp như vậy làm sao mà lời, lấy gì chi phí phải không, không những vậy mà phải bị phạt về tội khai thác vượt công suất cấp phép.
“Cát dạo này lên giá cao quá, nói thật thì làm gì ăn náy, thỉnh thoảng chúng tôi cũng phải nhập ít “cát lậu” để có chi phí, gần tết rồi, phải chi nhiều nguồn lắm. Làm nghề này ai mà không sai, không bán cát lậu thị cũng ô nhiễm môi trường, rồi nào là xe quá tải… khối lượng cát trái phép của chúng tôi chỉ là con số lẻ so với mấy ông chủ mỏ, mấy ổng không những khai thác hết trữ lượng mà tranh thủ những thời điểm cơ quan chức năng vắng thì khai thác ngoài phạm vi cấp phép, khai thác trên đường vận chuyển”, ông chủ bến cát chia sẻ thêm.
Để ngăn chặn được tình trạng mỏ cát “Thạch sanh” cần có sự phối hợp công tâm và thường xuyên từ các cấp chính quyền dưới địa phương đến tỉnh và cùng các sở ban ngành. Các cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa phương cần tham mưa cho cấp trên về biên pháp kiểm soát trữ lượng khai thác thực tế từ các mỏ. Xử lý nghiêm đối với các đơn vị khai thác vượt công suất, vượt trữ lượng, vượt độ sâu và khai thác ra ngoài ranh giới cấp phép nhằm răn đe đối với các trường hợp khác.