Những khó khăn thách thức trong phát triển dự án điện khí -LNG
Phát biểu tại Hội thảo Khoa học với chủ đề “Thúc đẩy phát triển năng lượng xanh: Hiện trạng và giải pháp thực hiện”, TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, cho biết còn nhiều khó khăn thách thức trong phát triển các dự án điện khí LNG, điện gió ở Việt Nam.
Theo TS. Nguyễn Quốc Thập tình hình thực hiện dự án điện khí theo quy hoạch điện VIII và quy hoạch năng lượng quốc gia được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành đến năm 2030 là 30.424 MW (23 dự án). Trong đó, Nhà máy điện khí sử dụng khí khai thác trong nước là 7.900 MW (10 dự án); Nhà máy điện khi sử dụng LNG ~22.400 MW (13 dự án).
Đến thời điểm tháng 12/2023, mới chỉ 1 nhà máy điện khí là Nhà máy nhiệt điện Ô Môn I (660 MW) đã đưa vào vận hành năm 2015 và đang sử dụng nhiên liệu dầu. Nhà máy nhiệt điện Ô Môn I sẽ chuyển sang sử dụng nhiên liệu khí sau khi có khí từ mỏ khí Lô B. Hiện, đang xây dựng Dự án NMNĐ Nhơn Trạch 3 và 4, công suất 1.624 MW, tiến độ đạt 85%, sử dụng LNG từ Kho cảng LNG Thị Vải; Đang trong quá đầu tư xây dựng có 18 dự án, trong đó: 9 dự án sử dụng khí khai thác trong nước, Tổng công suất: 7.240 MW; 9 dự án sử dụng LNG, tổng công suất là 16.400 MW; 03 dự án đang lựa chọn nhà đầu tư, tổng công suất 4.500 MW.
TS. Nguyễn Quốc Thập đánh giá để hiện thực hoá chuỗi dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi theo quy hoạch điện VIII và quy hoạch năng lượng quốc gia là thách thức lớn.
Các khó khăn, vướng mắc chung về cơ chế chính sách trong phát triển các dự án điện, việc điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện chưa có hướng dẫn trình tự, thủ tục Thẩm định, trình phê duyệt, phê duyệt bổ sung đối với các dự án đầu tư chưa có trong Quy hoạch; Cơ chế tài chính và thu xếp vốn khó khăn do vượt quy định về giới hạn tỷ lệ an toàn tín dụng (15% VĐL) khi cho vay theo quy định của Luật tổ chức tín dụng, do vốn cần thu xếp/huy động các dự án điện lớn.
Bên cạnh đó, hầu hết các dự án điện không thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ. Hiện chưa đủ cơ sở pháp lý để bảo lãnh thay thế bảo lãnh Chính phủ để có thể vay vốn/thu xếp vốn cho các dự án, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước như Petrovietnam, EVN, TKV…
Đối với phát triển dự án điện khí - LNG ngoài việc thị trường tiêu thụ điện khí LNG chậm thì cơ bản nhất hiện nay đó là chưa có cơ chế bảo lãnh/bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế về nhập khẩu LNG cho các dự án điện khí - LNG. Chính vì chưa có quy định bên mua điện thực hiện bao tiêu sản lượng điện đối với điện khí LNG và Cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện khí LNG; Luật Giá hiện hành chưa quy định Cước phí nhập khẩu, tồn trữ, tái hóa LNG thuộc danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá nên cước phí này sẽ được các bên liên quan đàm phán và thống nhất nên dẫn đến gặp khó khăn trong quá trình đàm phán, ký kết HĐ mua bán khí LNG và điện tương ứng, TS. Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh.
Để hiện thực hoá chuỗi dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi, TS. Nguyễn Quốc Thập đề xuất và kiến nghị 6 nhóm giải pháp. Trong đó cần nghiên cứu xây dựng Quy hoạch, xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, Nhà máy điện và các KCN/nhà máy có nhu cầu sử dụng điện đủ lớn; Thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình KCN/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi Nhà máy điện và kho cảng LNG, và điện gió ngoài khơi; Đa dạng hóa việc đầu tư hạ tầng TT điện tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là truyền tải cho các nhà máy điện khí LNG và điện gió ngoài khơi…; Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế sâu rộng trong lĩnh vực năng lượng, trong đó có lĩnh vực năng điện khí LNG, điện gió ngoài khơi.
TS. Nguyễn Quốc Thập cho rằng, giá điện khí LNG cần phải theo cơ chế thị trường, do chi phí nhập khẩu LNG chiếm phần lớn trong giá thành sản xuất điện và phải có các cam kết dài hạn về mua và bán khí LNG; về hợp đồng mua bán điện với khách hàng tiêu thụ điện… Từng bước triển khai thực hiện hiệu quả các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi theo Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch năng lượng quốc gia.