Thiếu tầm nhìn chung
Ông Phan Văn Mãi dẫn chứng, hiện đang tồn tại nhiều 'nút thắt' cản trở sự đi lên của vùng như: Thiếu một tầm nhìn chiến lược chung cho cả khu vực; tài nguyên đất, nước và môi trường khai thác sử dụng chưa hiệu quả; số lượng và chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu; sự thay đổi về mặt nhân khẩu học, di dân ra khỏi vùng với số lượng lớn; cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, không tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có của vùng và yêu cầu phát triển; nguồn lực đầu tư rất hạn chế, thiếu nền tảng thu hút đầu tư tư nhân; chậm đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất...
Ông Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre tham luận tại Đại hội |
Bên cạnh các “nút thắt” trên, một trong những thách thức lớn mà ĐBSCL đang phải đối mặt là BĐKH. Nếu như Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH, BĐSCL là một trong những đồng bằng trên thế giới bị tác động mạnh do BĐKH và nước biển dâng.
Là một châu thổ trẻ, BĐSCL rất mẫn cảm trước tác động mang tính toàn cầu của BĐKH, dẫn đến những ưu thế về điều kiện tự nhiên cho sự phát triển trước đây và hiện nay của vùng sẽ phải thay đổi. Điều dễ nhận thấy nhất là sự suy giảm về tài nguyên nước và phù sa, tình trạng mặn xâm nhập sâu và hạn hán kéo dài (năm 2016 năm 2019 - 2020), nước biển dâng sẽ tác động tiêu cực đến tài nguyên đất và hệ sinh thái, môi trường...
Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre cho rằng, muốn phát huy, khai thác hiệu quả, tiềm năng đưa ĐBSCL phát triển bền vững, cần nhận diện đầy đủ cơ hội và thách thức, nhất là phân tích, nhận diện đầy đủ những thách thức do BĐKH tác động đến quá trình phát triển của vùng, xây dựng các cơ chế chính sách, mô hình phát triển phù hợp.
Muốn ‘cất cánh’ cần thay đổi tư duy
Tập trung phân tích vào các giải pháp đễ gỡ các ‘nút thắt; phát triển, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Phạm Văn Mãi cho rằng, xác định phương hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường có tính liên ngành, liên tỉnh và liên vùng trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm phát triển vùng ĐBSCL đến năm 2050 trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước theo yêu cầu tại Nghị quyết số 120 của Chính phủ là một nhiệm vụ to lớn, không chỉ giới hạn phạm vi trong vùng mà gắn với quy hoạch cấp quốc gia, đòi hỏi sự thống nhất, kết nối đồng bộ giữa các địa phương, ngành, lĩnh vực.
Cần có tính đột phá, khả thi cao, mang tính kết nối nội vùng và liên vùng ĐBSCL |
Trong giai đoạn phát triển 2021 - 2030 và các thời kỳ tiếp theo, ĐBSCL phát triển dựa trên khai thác tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển theo hướng đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách tiếp cận hiện đại, phù hợp với thực tiễn, lấy tri thức khoa học - công nghệ làm nền tảng. Các giải pháp đưa ra cần có tính đột phá, khả thi cao, mang tính kết nối nội vùng và liên vùng, có sự thống nhất, kế thừa các chủ trương, chính sách, các giải pháp ứng phó với BĐKH tại vùng ĐBSCL đã được đề ra.
Cụ thể, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, phát triển bền vững của vùng ĐBSCL được đặt trong bối cảnh BĐKH và nước biển dâng. Sự phát triển nông nghiệp sẽ tận dụng được tài nguyên sẵn có, đồng thời chủ động ứng phó với BĐKH qua việc kiểm soát nguồn nước ngọt, kiểm soát lũ. Nền nông nghiệp của vùng hiện vẫn đang nắm giữ rất nhiều sản phẩm ưa chuộng của thị trường thế giới với nhu cầu ngày càng tăng, đủ sức đáp ứng nhu cầu sản phẩm nông nghiệp giá trị cao trong nước và thế giới. Chuyển đổi sang nền kinh tế nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến có thể được xem là giải pháp khả thi và bền vững trong dài hạn. Ngoài ra, phát triển kinh tế nông nghiệp sẽ được hỗ trợ bởi các ngành kinh tế khác phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng đồng bằng, như phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái, trải nghiệm,…
Để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng BĐSCL, thích ứng với BĐKH, xây dựng thành công nền nông nghiệp hiện đại và kinh tế biển phát triển bền vững, trước hết cần quan tâm đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống hạ tầng giao thông, cả đường thủy và đường bộ. Dù phân chia theo địa giới hành chính, song cần xem đây là một khu vực có cấu trúc tương đồng để hoạch định chính sách chung về đầu tư phát triển cho đồng bộ, nhắm đến lợi ích của toàn vùng. Hoàn chỉnh hạ tầng giao thông không chỉ có ý nghĩa về mặt vận chuyển hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của người dân khu vực, mà còn làm tăng tính liên kết giữa các ngành, lĩnh vực và các địa phương.
Bến Tre xây dựng tầm nhìn chiến lược
Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Phan Văn Mãi cho biết, trên tinh thần các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Đại hội XI Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra một trong các nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện là “Tập trung phát triển nông nghiệp sạch, hiệu quả là nền tảng; phát triển công nghiệp chế biến, năng lượng và xây dựng đô thị là động lực tăng trưởng... Tập trung phát triển các ngành kinh tế biển gắn với định hướng phát triển về hướng Đông, liên kết vùng và chủ động thích ứng với BĐKH. Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng giao thông...”.
Cánh đồng mẫu lớn tại ĐBSCL |
Từ việc đánh giá khái quát về thực trạng, tiềm năng, lợi thế của địa phương và khu vực, để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng phát triển bền vững vùng ĐBSCL nói chung và Bến Tre nói riêng, thích ứng với BĐKH, ông Mãi cho rằng, cần sự nỗ lực, quyết tâm cao của toàn vùng và sự quan tâm, hỗ trợ to lớn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ban, ngành Trung ương, sự đồng thuận ủng cao của vùng ĐBSCL và cả nước.
Là một trong 13 tỉnh, thành phố của khu vực, có thể nói Bến Tre hội đủ các yếu tố đặc trưng của vùng BĐSCL, giàu tiềm năng về phát triển nông nghiệp và kinh tế biển. Đồng thời, với vị thế cù lao bao bọc bởi các con sông lớn và 65km bờ biển, sông rạch chằng chịt, tỉnh là một trong những địa phương dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH và nước biển dâng, minh chứng đợt mặn năm 2019 - 2020 xâm nhập sâu gần như bao phủ toàn tỉnh, cùng với hạn hán kéo dài, gây thiệt hại nặng nề và ảnh hưởng không chỉ sản xuất nông nghiệp, mà toàn bộ nền kinh tế, từ dịch vụ, thương mại, sản xuất công nghiệp và cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân do không đảm bảo cung cấp đủ nguồn nước ngọt.
Trên diễn đàn Đại hội, ông Mãi kiến nghị, trên cơ sở Quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bám sát chủ trương, định hướng của Chính phủ tại Nghị quyết số 120/NQ-CP, rất mong các Bộ, ngành chức năng của Trung ương xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch vùng, sớm đưa vào triển khai thực hiện, tạo cơ chế chính sách để ĐBSCL phát triển bền vững, thích ứng BĐKH, trở thành một trong những trung tâm kinh tế năng động, hiệu quả cao, tương xứng với tiềm năng và vị trí địa chiến lược của vùng. Trong đó, chúng tôi đề nghị quan tâm phát triển hành lang kinh tế ven biển, mở ra không gian phát triển mới cho ĐBSCL, từ đó cấu trúc lại không gian hiện hữu để ĐBSCL thật sự là nơi đáng sống và thịnh vượng trong điều kiện BĐKH.
Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương cần xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư phát triển toàn diện cơ sở hạ tầng cho vùng ĐBSCL như: hạ tầng thuỷ lợi - cấp nước, giao thông - logistics, năng lượng, hạ tầng số,... Đặc biệt, chúng tôi đề nghị có cơ chế đầu tư phát triển tuyến động lực ven biển nối TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng ĐBSCL (qua Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang), phát triển hành lang kinh tế ven biển, gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh và thích ứng với BĐKH và nước biển dâng.
Cùng với đó, nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ xanh trong lĩnh vực khai thác biển; quan tâm định hướng, giới thiệu các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn lớn đến đầu tư, nhất là đối với các dự án thuộc lĩnh vực thủy sản, công nghiệp, phát triển đô thị ven biển, năng lượng xanh, năng lượng tái tạo, dự án bảo tồn biển kết hợp mở rộng rừng phòng hộ, đặc dụng nhằm phục hồi đa dạng sinh học biển và ven biển.
Đồng thời, tăng cường đầu tư cho giáo dục ĐBSCL nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hiện đại, kinh tế biển bền vững và các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, công nghiệp của vùng ĐBSCL trong giai đoạn phát triển mới, mạnh mẽ và bền vững hơn; thành lập các khu kinh tế - quốc phòng vùng ven biển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, bảo vệ biển - đảo trong tình hình mới.