Yêu cầu đưa vào sử dụng gần 100 nghìn ha đất của các dự án chậm triển khai
Trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát của Quốc hội Nguyễn Phú Cường cho biết, phạm vi giám sát là việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (THTK, CLP) giai đoạn 2016-2021 và thời kỳ trước, sau có liên quan.
Do phạm vi rất rộng, nên Đoàn giám sát lần này tập trung vào khu vực công trên địa bàn cả nước, tập trung vào 5 nội dung trọng điểm và 7 lĩnh vực trọng tâm theo quy định của Luật THTK, CLP. Đoàn giám sát đã làm việc, giám sát trực tiếp với Chính phủ, 15 Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, 15 địa phương và khối cơ quan Tư pháp.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, việc thực hiện chính sách, pháp luật về THTK,CLP giai đoạn 2016 - 2021 đã đạt được những kết quả rất quan trọng, tích cực, song hành với kết quả to lớn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội của đất nước.
Cụ thể, các cấp, các ngành cơ bản đều ban hành Chương trình THTK, CLP 5 năm, hằng năm và tổ chức triển khai trên cơ sở quy định pháp luật về THTK, CLP và Chương trình do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Hệ thống pháp luật, tiêu chuẩn, định mức chế độ tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, đồng bộ hơn theo hướng minh bạch, dễ tiếp cận, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Giai đoạn 2016-2021, Quốc hội, UBTVQH thông qua 179 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương đã ban hành theo thẩm quyền 5.978 VBQPPL liên quan đến công tác THTK, CLP. Mức độ hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế được nâng lên, đến năm 2020 có khoảng 13.000 tiêu chuẩn Việt Nam, tỷ lệ hài hòa khoảng 60%.
Quản lý, sử dụng NSNN, các nguồn vốn nhà nước khác có nhiều chuyển biến tích cực, bảo đảm chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả hơn. Tổng thu và quy mô thu NSNN 5 năm giai đoạn 2016-2020, tương ứng đạt 6,918 triệu tỷ đồng và bình quân đạt 25,3% GDP, vượt mục tiêu đề ra và gấp 1,66 lần giai đoạn 2011-2015…
Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, đất đai, khoáng sản được tăng cường. Quy hoạch, kế hoạch phân bổ quỹ đất bảo đảm cho thực hiện Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; từng bước khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí. Công tác giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất cơ bản theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã đề ra. Nguồn thu từ đất góp phần tăng thu đáng kể cho NSNN.
Một số địa phương đã chú trọng, quyết liệt xử lý thu hồi được nhiều dự án treo, dự án chậm tiến độ (Ninh Bình: 725 dự án treo, diện tích 1.795 ha; Đồng Nai: 376 dự án, diện tích 3.875 ha; Quảng Ngãi đã chấm dứt hiệu lực thực hiện nghiên cứu, khảo sát, lập hồ sơ đề xuất đầu tư 296 dự án; Bình Dương: 289 dự án, diện tích 2.283 ha; Kiên Giang: 206 dự án, diện tích 2.075 ha; Hậu Giang hủy bỏ 141 dự án), yêu cầu đưa vào sử dụng gần 100 nghìn ha đất của các dự án chậm triển khai. Tài nguyên nước và các tài nguyên khác từng bước được quản lý khai thác có hiệu quả; nâng cao dần khả năng bảo đảm an ninh nguồn nước…
Hàng nghìn dự án chậm tiến độ và có xu hướng tăng lên qua các năm
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách, bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách, pháp luật về THTK, CLP vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế; việc chấp hành pháp luật còn chưa nghiêm; trong một số trường hợp thất thoát, lãng phí là rất lớn, nghiêm trọng, làm mất đi cơ hội phát triển.
Cụ thể, việc lập, thẩm định dự toán NSNN chưa sát thực tế. Nợ đọng thuế, thất thu, chậm thu, thu không đúng, không đủ. Công tác chuẩn bị đầu tư, lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư các dự án còn nhiều tồn tại, bất cập.
Hàng nghìn dự án chậm tiến độ và có xu hướng tăng lên qua các năm. Tổng hợp báo cáo chưa đầy đủ của các Bộ, ngành, địa phương năm 2016 có 1.448 dự án chậm tiến độ, năm 2017 là 1.609 dự án, năm 2018 là 1.778 dự án, năm 2019 là 1.878 dự án, năm 2020 là 1.867 dự án, năm 2021 là 1.962 dự án, trong đó, hầu hết dự án quan trọng quốc gia, các dự án trọng điểm đều chậm tiến độ. Hàng nghìn dự án phải điều chỉnh quyết định đầu tư, có dự án điều chỉnh nhiều lần, tổng mức đầu tư điều chỉnh cao gấp nhiều lần so với tổng mức đầu tư phê duyệt ban đầu. Hàng trăm dự án vi phạm thủ tục đầu tư.
Hàng nghìn dự án có thất thoát, lãng phí, trong đó, năm 2016 là 590 dự án, năm 2017 là 840 dự án, năm 2018 là 422 dự án, năm 2019 là 125 dự án, năm 2020 là 923 dự án, năm 2021 là 185 dự án. Có nhiều dự án trong số 1.086 trường hợp phải xử lý hình sự, đã xét xử…
Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chung trong thời gian tới, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát của Quốc hội Nguyễn Phú Cường đề nghị, cần đổi mới mạnh mẽ công tác tuyên truyền, phổ biến nhằm thay đổi nhận thức, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về THTK,CLP tại từng cơ quan, tổ chức, cá nhân, cả khu vực công cũng như khu vực tư để THTK,CLP thực sự làm một quốc sách hàng đầu; tăng cường, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước để phát triển nhanh và bền vững. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, xét xử việc thực hiện chính sách, pháp luật về THTK, CLP. Xử lý nghiêm minh, kịp thời trách nhiệm các tổ chức, cá nhân để xảy ra vi phạm trong công tác THTK, CLP; đổi mới việc xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện và báo cáo việc thực hiện chương trình THTK, CLP 5 năm và hằng năm, theo hướng vừa đảm bảo tính tổng thể, toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, có chủ đề từng năm…
Đoàn Giám sát kiến nghị, Ủy ban Tài chính, Ngân sách chủ trì, phối hợp các cơ quan của Quốc hội, các Ban thuộc UBTVQH, Đoàn Đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi, đôn đốc, giám sát việc xử lý 52 dự án, cụm dự án đầu tư công và sử dụng vốn Nhà nước khác không hiệu quả; 21 dự án, chuỗi dự án trọng điểm lĩnh vực dầu khí, điện, than chậm tiến độ; 18 dự án đất đai hoang hóa, lãng phí, có khó khăn vướng mắc; 908 dự án, công trình không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm tiến độ đưa đất vào sử dụng tại một số Phụ lục kèm theo dự thảo Nghị quyết và các tồn tại, hạn chế nêu trong Báo cáo số 330/BC-ĐGS 10 ngày 11/10/2022 của Đoàn giám sát. Báo cáo Quốc hội kết quả xử lý, thực hiện tại Kỳ họp thứ 6.
Đoàn cũng kiên nghị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong năm 2022 và 9 tháng đầu năm 2023: làm rõ các vi phạm, thất thoát, lãng phí phát hiện đến thời điểm báo cáo của từng Bộ, ngành, địa phương; làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm giải trình của người đứng đầu có liên quan và thực hiện các giải pháp khắc phục đối với 3.085 dự án sử dụng vốn nhà nước trong giai đoạn 2016-2021 có thất thoát, lãng phí; 74.378,7 ha đất sử dụng sai mục đích, bỏ hoang hóa, vi phạm pháp luật; 79.670 ha đất các công ty nông, lâm nghiệp đã có quyết định thu hồi nhưng chưa có phương án sử dụng; 305.043 ha đất các công ty nông, lâm nghiệp chưa có quyết định thu hồi và chưa có phương án sử dụng đất và các tồn tại, hạn chế khác nêu trong Báo cáo số 330/BC-ĐGS ngày 11/10/2022 của Đoàn giám sát;
Phân loại để xây dựng kế hoạch, lộ trình xử lý các tồn tại, hạn chế, thất thoát, lãng phí, trước mắt là 52 dự án, cụm dự án đầu tư công và sử dụng vốn nhà nước khác không hiệu quả; 21 dự án, chuỗi dự án trọng điểm lĩnh vực dầu khí, điện, than chậm tiến độ; 18 dự án đất đai hoang hóa, lãng phí, có khó khăn vướng mắc và 908 dự án, công trình không đưa đất vào 11 sử dụng hoặc chậm tiến độ đưa đất vào sử dụng. Báo cáo Quốc hội kết quả rà soát, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và việc xử lý các tồn tại, hạn chế này tại Kỳ họp thứ 6;
Trong năm 2022 và năm 2023 rà soát, tổng kết, đánh giá tác động các chồng chéo, chưa đồng bộ, kịp thời của hệ thống pháp luật liên quan đến công tác THTK,CLP; ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện các Luật có liên quan đến công tác THTK,CLP; rà soát xong và ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia, đơn giá, định mức kinh tế - kỹ thuật trong đầu tư, xây dựng, dịch vụ công còn thiếu hoặc còn chồng chéo, mâu thuẫn; sửa đổi, bổ sung định mức chi thường xuyên, chi tiêu công, tài sản công, xe công, khoán chi, khoán xe công; lao động, biên chế; quản lý, sử dụng tài nguyên, đất, khoáng sản…