Mốc son trong công tác bảo tồn

25/04/2015 00:00

(TN&MT) - Kế hoạch hành động (KHHĐ) đa dạng sinh học (ĐDSH) năm 1995 được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 845 được xem là một chính sách nền tảng đầu tiên của Việt Nam trong bảo tồn tài nguyên ĐDSH. Đến nay, sau hai thập kỷ, chính sách đó được xem là “bệ phóng” quan trọng để đưa công tác bảo tồn đi vào quy củ, có chiều sâu và bền vững.

Nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm duy trì tính bền vững của ĐDSH
Nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm duy trì tính bền vững của ĐDSH

Dần hoàn thiện khung pháp lý

Theo GS. TSKH Đặng Huy Huỳnh, Chủ tịch hội Động vật học Việt Nam, KHHĐ ĐDSH năm 1995 do Chính phủ ban hành đã xác lập các dự án hành động cần đầu tư thực hiện trong giai đoạn 1996-2000. Đến năm 2007, để phù hợp với mục tiêu và bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội trong xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Chính phủ đã phê duyệt KHHĐ quốc gia ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nhằm thực hiện Công ước ĐDSH và Nghị định thư Cartagena về An toàn sinh học. Tiếp đó, với tầm nhìn mới về ĐDSH là nền tảng của nền kinh tế xanh, bảo tồn ĐDSH là giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về ĐDSH đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã được Chính phủ ban hành vào năm 2013.

Một trong những thành tựu quan trọng nhất chính là Luật ĐDSH đã được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2009. Phải khẳng định rằng, Luật ĐDSH 2008 được ban hành đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn tầm quan trọng và sự cần thiết trong việc điều chỉnh thực trạng bảo tồn ĐDSH hiện nay của Việt Nam.

Một hành lang pháp lý được xây dựng góp phần hệ thống hoá các quy định rải rác trước đó cũng như bổ sung thêm những nội dung mới nhằm điều chỉnh đầy đủ và thực thi có hiệu quả pháp luật bảo tồn ĐDSH - một trong những phương thức bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên. Kể từ khi có Luật, hệ thống văn bản dưới luật liên quan đến bảo tồn và phát triển ĐDSH cũng đã được Nhà nước xây dựng và ban hành khá đầy đủ.

Ngay sau khi Luật ĐDSH có hiệu lực, đã có 8 Nghị định, 9 Quyết định và 12 Thông tư được ban hành, thể chế hóa các chiến lược, quy hoạch, cơ chế về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH Việt Nam.

Quản lý quy củ, có chiều sâu

Việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn là bước đi rất quan trọng trong việc bảo tồn các loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái. Hiện nay, Việt Nam đã quy hoạch và thành lập được 164 Khu bảo tồn (KBT) rừng đặc dụng, trong đó có 30 VQG, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 11 KBT loài và sinh cảnh, 45 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng thực nghiệm nghiên cứu khoa học với tổng diện tích gần 2,2 triệu ha. Dự kiến đến năm 2020 hệ thống này sẽ mở rộng đến 2,4 triệu ha với 176 khu (34 VQG, 58 KBT thiên nhiên, 14 KBT loài và sinh cảnh, 61 khu bảo vệ cảnh quan và 09 khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đã quy hoạch 16 KBT biển và 45 KBT vùng nước nội địa. Ngoài ra, trong hệ thống cũng đã có 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới, 2 khu di sản thiên nhiên, 5 khu di sản ASEAN và 6 khu đất ngập nước Ramsar được quốc tế công nhận. Bên cạnh đó, các hình thức bảo tồn chuyển chỗ về ĐDSH cũng được phát triển trong cả nước mang lại hiệu quả cao về bảo tồn nguồn gen thực vật, động vật quý, hiếm, góp phần xóa đói giảm nghèo ở một số địa phương.  Những con số trên cho thấy, sự thay đổi nhận thức về cân bằng giữa bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế, mà quan trọng hơn đó chính là sự nỗ lực, quan tâm, cam kết và hành động của nhà nước vì các lợi ích chung của xã hội, trước mắt và lâu dài.

GS. TSKH Đặng Huy Huỳnh cũng cho biết, một thành tựu quan trọng khác của công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam trong 20 năm qua chính là huy động được nguồn lực tài chính, kỹ thuật và sự tham gia tích cực của các tổ chức đa phương, tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước. UNDP, WB, JICA, UNEP, GIZ, IUCN, WWF, FFI, WCS, Birdlife International, TRAFFIC là những tổ chức đã có những đóng góp đáng kể cho quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về bảo tồn ĐDSH, cũng như hỗ trợ thiết lập và quản lý nhiều VQG/KBT có giá trị ĐDSH toàn cầu.

Thông qua các dự án hỗ trợ, nhiều loài động, thực vật mới có giá trị cho khoa học đã được phát hiện, phát hiện lại và được đầu tư bảo tồn như Sao la, Mang lớn, một số loài linh trưởng, Chim trĩ… Bên cạnh đó, sự hình thành các tổ chức xã hội trong nước như VACNE, ENV, PanNature, MCD, GreenVIET, Wildlife At Risk… cũng đã gia tăng nỗ lực đóng góp cho bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam từ cả hiện trường đến diễn đàn chính sách của quốc gia, quốc tế. Xu hướng các doanh nghiệp và tổ chức cộng đồng tham gia TBTN cũng đang được hình thành, hứa hẹn tạo nhiều nguồn lực cho bảo vệ các giá trị và di sản ĐDSH của Việt Nam.

Để giúp các địa phương có tiêu chí xác định loài ngoại lai xâm hại, Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 22 ngày 1/7/2011 hướng dẫn đưa ra danh mục các loài ngoại lai xâm hại cần quan tâm phát hiện ở các địa phương.

Phương Anh

 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Mốc son trong công tác bảo tồn
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO