Rất không đầy đủ và có lỗi với ông nếu chỉ qua một số sự kiện để nói lên vai trò lãnh đạo của một vị lãnh tụ đối với ngành công nghiệp quan trọng, nhưng tôi muốn nói lên sự quan tâm sâu sắc của ông trong việc xây dựng ngành và sự có mặt rất quyết định của ông ở những bước ngoặt lịch sử của ngành dầu khí mà vai trò chỉ đạo của ông đã thúc đẩy sự phát triển, đặt nền móng cho những thành tựu giai đoạn hiện nay của ngành Dầu khí Việt Nam…
Tôi chỉ được làm việc và lần đầu tiên tiêp xúc với ông khi tôi là Phó Tổng Giám đốc của Liên Doanh Dầu khí Vietsovpetro. Tôi được nghe nói rất nhiều về ông như một đồng chí lãnh đạo rất sâu sát, cụ thể, chi tiết, đòi hỏi cấp dưới phải có tinh thần tự chủ, quyết liệt xây dựng nội lực, dám làm, dám chịu trách nhiệm… Ông luôn nhắc nhở chúng tôi phải nhanh chóng xây dựng ngành Dầu khí làm nền tảng cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Vào đầu tháng 3/1981 ở cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông đã đến kiểm tra công tác xây dựng và chuẩn bị hạ thủy chân đế giàn khoan đầu tiên của Vietsovpetro. Chúng tôi đã báo cáo với ông về tiến độ và những khó khăn kỹ thuật vì phải nhập tất cả và đồng bộ từ Bacu, công nhân kỹ thuật lắp ráp 100% là người Liên Xô…v.v. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, ông quay sang hỏi lãnh đạo phía Việt Nam - một chân đế giàn khoan có bao nhiêu tấn thép, loại mác gì? Bao nhiêu bulong, mác thép, kích cỡ, bao nhiêu “cút nối”, chế tạo ra sao? Lẽ dĩ nhiên chúng tôi không trả lời được đầy đủ vì đó là phần thiết kế của nhà máy chế tạo. Trước gương mặt suy tư của ông, chúng tôi đã cảm thấy thiếu sót lớn không chỉ là sự thiếu sâu sát, mà vấn đề quan trọng là không suy nghĩ phía Việt Nam có thể làm được gì, những nhà máy cơ khí, các Viện thiết kế của chúng ta có thể làm được gì, dù là những chi tiết rất đơn giản để không phải nhập từ Liên xô?
Để sửa sai, chúng tôi đã tranh thủ sự hợp tác của các nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Sông Công, Ba Son, các Viện thiết kế công trình biển (Bộ Xây dựng), Viện thiết kế công trình thủy (Bộ Giao thông Vận tải), Công ty xây lắp 18/3, v.v... Từ chân đế thứ 2, 3 sau này, chúng tôi đã thay thế một số lớn chi tiết sản xuất tại Việt Nam, bắt đầu chế tạo các “cút nối” là bộ phận khó trong chân đế ở tại cảng Vietsovpetro. Đặc biệt là sự trưởng thành của đội ngũ kỹ thuật lắp ráp người Việt có thể thay thế người Liên Xô.
Tinh thần “phát huy nội lực” xuyên suốt trong chỉ đạo của ông. Đối với công trình sớm đưa khí vào bờ từ mỏ Bạch Hổ, sau gần mười năm khai thác mỏ Bạch Hổ, lượng khí đồng hành vẫn phải đốt bỏ hằng năm lúc đó đã lên đến gần 1 tỷ mét khối tương đương 1 triệu tấn dầu, vừa lãng phí vừa gây ô nhiễm môi trường. Ta không đủ về năng lực tài chính và kỹ thuật nên kêu gọi liên doanh đầu tư. Việc đàm phán với liên doanh bị kéo dài do nhiều nguyên nhân. Không chờ đợi kết quả đàm phán, ông cho phép ngành Dầu khí tự vay vốn, tự đầu tư và bắt đầu từng bước xây dựng đường ống và những công trình xử lý, tàng trữ. Quyết định phát huy nội lực sớm đưa khí vào bờ của ông đã đem lợi cho đất nước hàng chục ngàn tỷ đồng, tăng giá trị gia tăng của khai thác dầu thô và kịp thời giải quyết được sự thiếu hụt năng lượng của đất nước những năm 1996-1999, quan trọng hơn cả là đặt nền móng cho sự phát triển ngành công nghiệp khí theo hướng hiện đại hóa.
Ông rất quan tâm đến sự phát triển ngành công nghiệp dầu khí toàn diện hoàn chỉnh và bền vững. Mỗi lần công tác phía Nam, ông đều yêu cầu chúng tôi báo cáo về hoạt động khai thác dầu khí ở Liên doanh Vietsovpetro. Ông luôn nhắc nhở chúng tôi việc gia tăng sản lượng phải bền vững, duy trì đời mỏ và kết hợp gia tăng trữ lượng. Ông kiên định đường lối hợp tác với Liên Xô (Nga) để xây dựng ngành Dầu khí về cơ sở kỹ thuật và đội ngũ kỹ thuật, chuyên gia, tin tưởng ở trình độ khoa học dầu khí của Nga.
Vào những năm 1986 - 1987, mặc dù chúng ta đã bắt đầu khai thác dầu ở mỏ Bạch Hổ, nhưng những giếng khai thác sớm vì được thiết kế dựa theo tài liệu cũ của Công ty Mobil, kết quả không như mong đợi, gây tâm lý hoài nghi trong toàn ngành. Lúc đó Liên doanh Vietsovpetro chủ trương mở rộng diện thăm dò bằng giếng khoan số 4. Phương án này không được các cán bộ kỹ thuật Hà Nội đồng tình. Ý kiến khác biệt được báo cáo đến ông. Và sau khi nghe Liên doanh báo cáo, với sự tin tưởng vào khả năng của đội ngũ địa chất Việt Nam và Liên xô, ông đã quyết cho phép khoan giếng số 4. Sự thành công phát hiện dầu lưu lượng lớn của giếng khoan số 4 không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà quan trọng là khẳng định tầng chứa dầu mới thứ 2 ở Việt Nam và khu vực mà trước đây nhiều công ty tư bản làm việc ở Việt Nam không thừa nhận, giúp chúng tôi làm giảm đi sự hoài nghi, hoang mang đối với tương lai phát triển của Liên doanh dầu khí Vietsovpetro.
Ông rất tình cảm và tế nhị, được các chuyên gia Nga mến phục không chỉ vì ông là nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam mà vì tình cảm rất “con người” của ông (một từ ngữ Nga nói lên tính cách giản dị, nhân ái), khi Tổng giám đốc Vietsovpetro - đồng chí Ardjanov bị bệnh, ông đã gọi điện hỏi thăm và chỉ đạo các đồng chí lãnh đạo Tổng cục Dầu khí làm việc với bệnh viện chăm sóc chữa trị.
Nhưng ông cũng rất nguyên tắc và kiên định trong bảo vệ quyền lợi nước chủ nhà của phía Việt Nam trong Liên doanh. Ông đã yêu cầu tổ đàm phán về sửa đổi Hiệp định Liên doanh tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí Vietsovpetro, kiên trì thuyết phục phía bạn về các điều khoản kinh tế. Những chỉ đạo rất nguyên tắc và kiên định của ông đã mang lại thành công và Hiệp định sửa đổi của Liên doanh dầu khí Việt Xô năm 1990 là cơ sở hoạt động có hiệu quả của Liên doanh dầu khí trong gần 30 năm qua, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Trong chỉ đạo, ông xem ngành Dầu khí là công cụ kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Ông yêu cầu chúng tôi phải báo cáo rất chi tiết, cụ thể những chỉ tiêu, từ việc quản lý tiền bán dầu, hiệu quả khai thác của Vietsovpetro, lợi nhuận hằng năm Vietsovpetro phải đóng góp cho Nhà nước mỗi khi làm việc với ông.
Ông rất quan tâm đến “giá trị chuỗi” của công nghiệp khí và sự đóng góp của ngành trong việc tạo sự phát triển ổn định kinh tế đất nước. Khi gặp khó khăn trong đàm phán để tổ chức liên doanh xây dựng nhà máy đạm ở Phú Mỹ, cũng như nếu không tổ chức được hộ tiêu thụ khí ở miền Tây Nam Bộ thì ta phải bán khí khai thác được ở Tây Nam với giá rẻ cho nước ngoài, mặc dù lúc đó ông đã chuyển sang làm Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương nhưng ông rất quan tâm và yêu cầu Chính phủ ủng hộ để ngành dầu khí tự vay vốn, tự đầu tư xây dựng khu Khí - Điện - Đạm Phú Mỹ và Khí - Điện - Đạm Cà Mau. Hiệu quả kinh tế của Quyết định sáng suốt này có thể thấy rõ nhưng ý nghĩa chính trị - xã hội của những công trình này chắc còn thời gian mới nhận biết được trong chính sách đảm bảo an ninh lương thực và đường lối công nghiệp hóa nông thôn của Đảng. Nhưng quan trọng đối với ngành Dầu khí - đó là nền tảng ban đầu của sự phát triển toàn diện và hoàn chỉnh của ngành dầu khí như một Tập đoàn kinh tế nhà nước.
Ngày nay ngành dầu khí đã trở thành Tập đoàn kinh tế phát triển hoàn chỉnh, đa ngành, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân và là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng của Chính phủ. Nền tảng của sự phát triển này là kết quả của đường lối và chủ trương phát triển ngành dầu khí của Đảng và Nhà nước, trong đó có vai trò và dấu ấn của ông, đặc biệt trong những giai đoạn bước ngoặt lịch sử của ngành. Tập thể lãnh đạo và cán bộ ngành Dầu khí Việt Nam hiện đang thực hiện thắng lợi, xứng đáng với sự mong ước và tin cậy của ông đối với ngành.
Kính xin vĩnh biệt Bác Mười với sự tri ân sâu sắc của những người lao động Dầu khí!