Chính sách bồi thường
Quyết định số 22/2018/QĐ-UBND quy định cụ thể về việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Theo đó, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu hồi đất ở mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa được cấp thì việc bồi thường về đất được thực hiện như sau:
Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở (nhỏ hơn diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa do UBND tỉnh quy định hoặc được cơ quan có thẩm quyền cho phép thu hồi hết vì không bảo đảm an toàn để xây dựng nhà ở) mà hộ gia đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở bị thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư (bố trí tái định cư); trường hợp không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư thì được Nhà nước bồi thường bằng tiền. Việc bồi thường bằng nhà ở tái định cư chỉ áp dụng khi địa phương có quỹ nhà ở tái định cư, nhà ở xã hội.
Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở (nhỏ hơn diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa do UBND tỉnh quy định hoặc được cơ quan có thẩm quyền cho phép thu hồi hết vì không bảo đảm an toàn để xây dựng nhà ở) mà hộ gia đình, cá nhân còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở bị thu hồi thì chỉ được bồi thường bằng tiền, không thực hiện bố trí tái định cư. Nếu người bị thu hồi đất có nhu cầu bồi thường bằng đất ở và địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì mới được xem xét để bồi thường bằng đất ở.
Trường hợp thu hồi một phần diện tích đất ở, phần diện tích đất còn lại đủ điều kiện để ở (kể cả phần diện tích đất vườn, ao trong cùng thửa đất ở đủ điều kiện chuyển mục đích sang đất ở) thì chỉ được bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng đất ở. Nếu người bị thu hồi đất có nhu cầu bồi thường bằng đất ở và địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì mới được xem xét để bồi thường bằng đất ở.
Trường hợp hộ gia đình mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi (có xác nhận của UBND cấp xã nơi đang sinh sống), nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một (01) thửa đất ở thu hồi mà tại thời điểm thu hồi đất có nhu cầu tách hộ thì được xem xét giao thêm đất ở, nhà ở tái định cư hoặc giao thêm đất ở ngoài diện tích đất ở, nhà ở tái định cư đã được bố trí, bồi thường nhưng phải nộp tiền sử dụng đất, tiền nhà ở tái định cư đối với diện tích đất ở, nhà ở giao thêm.
Tuỳ theo dự án và quỹ đất, quỹ nhà ở tái định cư của địa phương, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng đề xuất UBND cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quyết định diện tích đất ở, nhà ở tái định cư giao thêm phù hợp cho các trường hợp tách hộ. Diện tích đất ở giao thêm cho mỗi hộ được tách không vượt quá diện tích suất tái định cư tối thiểu quy định và đảm bảo ít nhất phải bằng diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa do UBND tỉnh quy định.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chổ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chổ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi và có nhu cầu mua, thuê nhà ở, giao đất để làm nhà ở thì được bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Diện tích đất ở được giao không vượt quá diện tích suất tái định cư tối thiểu quy định và đảm bảo ít nhất phải bằng diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa do UBND tỉnh quy định.
Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất là giá cụ thể do UBND tỉnh (hoặc cơ quan được ủy quyền) quyết định. UBND cấp huyện nơi có dự án có trách nhiệm bố trí quỹ đất để giao đất cho người phải di chuyển chỗ ở.
Trường hợp sau khi Nhà nước thu hồi mà diện tích đất ở còn lại nhỏ hơn hạn mức giao đất ở theo quy định của UBND tỉnh nhưng bằng hoặc lớn hơn diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa trên địa bàn tỉnh và phù hợp quy hoạch, thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải hướng dẫn hộ gia đình, cá nhân sử dụng theo quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị và quy hoạch điểm dân cư nông thôn. Trường hợp diện tích còn lại không phù hợp quy hoạch thì thu hồi toàn bộ diện tích đất và được bồi thường bằng đất ở hoặc bồi thường bằng tiền tùy theo quỹ đất ở của địa phương.
Trường hợp trong thửa đất ở thu hồi còn diện tích đất nông nghiệp không được công nhận là đất ở và không nằm trong hành lang của các công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn thì hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi được chuyển mục đích sử dụng đất đối với phần diện tích đất nông nghiệp đó sang đất ở trong hạn mức giao đất ở của tỉnh quy định, nếu hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu và việc chuyển mục đích sang đất ở phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Hộ gia đình, cá nhân khi chuyển mục đích sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật về thu tiền sử dụng đất.
Trường hợp thu hồi toàn bộ thửa đất, trong đó có cả đất ở, đất vườn, ao trong cùng thửa đất ở mà người bị thu hồi đất đề nghị được bồi thường bằng đất hoặc bố trí tái định cư (nếu đủ điều kiện) có cả đất ở và đất vườn liền kề thì cũng được xem xét bồi thường, giao đất tái định cư thửa đất có cả đất ở và đất vườn tùy theo quỹ đất của địa phương. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng báo cáo UBND cấp huyện nơi có dự án để bố trí quỹ đất bồi thường, bố trí tái định cư.
Diện tích đất ở bồi thường, bố trí tái định cư trong trường hợp này không vượt quá hạn mức giao đất của tỉnh, diện tích đất vườn bồi thường không vượt quá 300m2, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này và trường hợp thửa đất thu hồi có diện tích đất ở lớn hơn nhiều so với hạn mức được giao thì được xem xét bồi thường, giao thêm tùy theo quỹ đất của địa phương.
Việc xác định lại diện tích đất ở để bồi thường trong trường hợp thửa đất có vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở, thực hiện theo Quyết định quy định về hạn mức giao đất, công nhận đất ở trên địa bàn tỉnh.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại không đủ điều kiện để ở, nếu có nhu cầu được bồi thường đất ở tại khu vực dự án tạo quỹ đất ở đó thì được xem xét bồi thường đất ở tại chỗ (tại khu vực dự án tạo quỹ đất ở đó).
Chính sách hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất
Theo đó, hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Điều 83, Luật Đất đai 2013; Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP) thực hiện như sau:
Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ ổn định đời sống trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ là 24 tháng;
Trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ ổn định đời sống trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ là 36 tháng;
Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.
Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp thì được hỗ trợ ổn định sản xuất, bao gồm: Hỗ trợ giống cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất nông nghiệp, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương nghiệp. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng căn cứ định mức quy định, lập dự toán các chi phí theo mục đích sản xuất trên diện tích đất nông nghiệp được bồi thường để hỗ trợ.
Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 19 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP) có đăng ký kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất mà bị ngừng sản xuất, kinh doanh thì được hỗ trợ ổn định sản xuất bằng tiền, mức hỗ trợ bằng 30% một năm thu nhập sau thuế, theo mức thu nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó.
Thu nhập sau thuế được xác định căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán hoặc được cơ quan thuế chấp thuận; trường hợp chưa được kiểm toán hoặc chưa được cơ quan thuế chấp thuận thì việc xác định thu nhập sau thuế được căn cứ vào thu nhập sau thuế do đơn vị kê khai tại báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cuối mỗi năm đã gửi cơ quan thuế. Đối với các trường hợp đăng ký nộp thuế khoán thì cơ quan thuế căn cứ mức khoán thuế để xác nhận các khoản thu nhập sau thuế 3 năm liền kề theo các quy định hiện hành của từng ngành nghề kinh doanh để làm cơ sở xác định mức hỗ trợ.
Người lao động do tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại Điểm này thuê lao động theo hợp đồng lao động thì được áp dụng hỗ trợ chế độ trợ cấp ngừng việc theo quy định của pháp luật về lao động, thời gian trợ cấp 06 tháng. Hợp đồng lao động được tính hỗ trợ là hợp đồng được ký trước ngày có thông báo thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh tự phát không có đăng ký kinh doanh nhưng có đóng thuế môn bài mà được UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận hộ gia đình, cá nhân đó chỉ có nguồn thu nhập ổn định từ việc sản xuất, kinh doanh trên khu đất bị thu hồi, khi Nhà nước thu hồi đất mà bị ngừng sản xuất, kinh doanh thì được xem xét hỗ trợ ổn định sản xuất bằng tiền mặt bằng 20% một năm thu nhập từ việc sản xuất, kinh doanh trên khu đất bị thu hồi. Nhưng tiền hỗ trợ không vượt quá mức hỗ trợ cho từng vùng quy định tại Khoản 1, Điều 19 Quy định này và không áp dụng hỗ trợ chế độ trợ cấp ngừng việc cho người lao động được thuê. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng phối hợp với UBND cấp xã và chủ đầu tư điều tra thu nhập bình quân để xác định tiền hỗ trợ…