Cân đối cung cầu lúa gạo Việt Nam: Đối mặt thách thức và giải pháp bền vững trong bối cảnh biến động thị trường
Tại Hội nghị về ổn định thị trường lúa gạo do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì sáng 4/3, các chuyên gia và lãnh đạo địa phương đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành.
>> Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị về ổn định thị trường lúa gạo
Ngành lúa gạo Việt Nam hiện đang đối diện với nhiều thách thức trong năm 2025, khi thị trường quốc tế và yếu tố trong nước đồng loạt gây áp lực lên giá cả và sản lượng xuất khẩu. Từ sự sụt giảm của giá xuất khẩu, khó khăn trong việc thu mua, lưu trữ, cho đến việc đối phó với biến động môi trường và sản xuất, các chuyên gia và lãnh đạo địa phương đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành.

Giá gạo giảm trên toàn cầu
Báo cáo tại cuộc họp, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường Ngô Phong đã tổng lược lại diễn biến tình hình sản xuất và giá giao trong và ngoài nước trong hai tháng đầu năm 2025.
Theo đó, về tình hình sản xuất lúa từ 2020-2024 và Kế hoạch năm 2025, theo đó, lấy thống kê trong năm 2024, với diện tích 7,1 triệu ha năng suất đạt 60,9 tạ/ha và cho sản lượng là 43,27 triệu tấn thóc. Theo kế hoạch, tổng diện tích gieo cấy năm 2025, dự kiến 7,03 triệu ha, năng suất ước đạt 61,6 tạ/ha, sản lượng ước đạt: 43,14 triệu tấn, giảm 323 nghìn tấn so với năm 2024.

Thông tin về cân đối cung cầu lúa gạo năm 2025, ông Ngô Phong cho biết, ước sản xuất cả năm vùng ĐBSCL đạt 3,8 triệu ha, năng suất bình quân ước 63,09 tạ/ha; sản lượng ước đạt 24,057 triệu tấn. Trong đó, tiêu thụ nội địa, giống, thức ăn chăn nuôi khoảng 8,9 triệu tấn gạo; Phục vụ cho xuất khẩu: 15,177 triệu tấn lúa, tương đương 7,588 triệu tấn gạo…
Thông tin về tình hình xuất khẩu gạo, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường thông tin, Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) dự báo tháng 2/2025: Sản lượng gạo toàn cầu dự kiến đạt 532,7 triệu tấn, mức cao kỷ lục, nhưng giảm nhẹ so với dự báo trước đó. Tổng cung gạo toàn cầu đạt 712,15 triệu tấn, cao hơn 9,2 triệu tấn so với năm trước.
Tiêu thụ toàn cầu ước đạt 530,5 triệu tấn, tăng so với năm trước, chủ yếu do Trung Quốc và Indonesia. Tồn kho cuối kỳ dự báo 181,6 triệu tấn, giảm nhẹ nhưng vẫn cao hơn năm trước.
Thương mại gạo năm 2025 đạt 58,5 triệu tấn, tăng 450.000 tấn so với dự báo trước nhưng thấp hơn năm 2024. Ấn Độ, Kazakhstan tăng xuất khẩu, trong khi Argentina, Mỹ bị hạ dự báo. Nhập khẩu tăng tại Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Sri Lanka, Mỹ...
Giá gạo giảm trên toàn cầu, trong đó Thái Lan giảm 10-11%, Việt Nam giảm 6%, Nam Mỹ và Mỹ cũng giảm, nhưng gạo Mỹ vẫn đắt hơn Nam Mỹ.
Về xu hướng trong thời gian tới, sản lượng cao tiếp tục gây áp lực giảm giá, trong khi nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc, Indonesia có thể hỗ trợ thị trường.
Xuất khẩu gạo trong 02 tháng đầu năm: tăng khối lượng, giảm giá trị
Báo cáo về tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam từ năm 2020-2025, ông Ngô Phong cho biết, khối lượng xuất khẩu gạo 02 tháng đầu năm 2025 đạt 1,1 triệu tấn và 613 triệu USD, tăng 5,9% về khối lượng nhưng giảm 13,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Với các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, theo thống kê, trong tháng 1 năm 2025, thị trường Philippin là thị trường lớn nhất, chiếm thị phần 38,6%, sản lượng 224 ngàn tấn, giá trị 125 triệu USD, giảm 20,2% vê lượng và 35,5% về giá trị so cùng kỳ.
Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ, thị trường tăng mạnh nhất, sản lượng là 23.124 tấn (855,7 lần), giá trị 14,04 triệu USD (Tăng 600,7 lần).
Thị trường Campuchia, sản lượng 3.465 tấn (giảm 47,5%), giá trị 2,1 triệu USD (giảm 47,8%).
Nhận định vấn đề và chỉ ra nguyên nhân, Cục trưởng Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường chỉ ra rằng do vấn đề cung tăng - cầu giảm gây áp lực lên giá; Ấn Độ nối lại xuất khẩu, đẩy nguồn cung ra thị trường, gây áp lực lớn lên giá gạo. Nguồn cung toàn cầu dư thừa, sản lượng tăng tại Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Pakistan; Thái Lan gặp khó khăn, các nước nhập khẩu chờ giá giảm, ép giá; Nhập khẩu chậm, Philippines, Indonesia tích trữ đủ, chờ giá giảm; Chuỗi sản xuất - thu mua - chế biến - xuất khẩu chưa bền vững…
Ông Ngô Phong cũng đưa ra các giải pháp cho các Bộ, ngành, địa phương, các hiệp hội và doanh nghiệp để các bên cùng nhau thảo luận và đi đến phương án phù hợp và tối ưu nhất trong bối cảnh hiện nay cũng như có các chính sách lâu dài trong những năm tiếp theo.
Khó khăn từ thị trường quốc tế và những giải pháp cấp thiết

Theo ông Đỗ Hải Nam, đại diện Hiệp hội Lương thực Việt Nam, tình hình xuất khẩu gạo hiện nay đang gặp khó khăn lớn. Ông cho biết, giá xuất khẩu của gạo Việt Nam đã giảm mạnh, đặc biệt là khi Ấn Độ giảm giá xuất khẩu và Philippines tăng cường kiểm soát, làm giảm tính cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. So với mức giá trung bình của năm 2024, giá xuất khẩu gạo hiện tại đã giảm tới 30%. Thực tế này đẩy các nhà xuất khẩu vào tình thế khó khăn khi đối mặt với sự suy giảm mạnh mẽ về lợi nhuận.
Trước tình hình đó, ông Nam đề xuất Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần xem xét hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân thông qua các chương trình tín dụng vay mua gạo. Đồng thời, tăng hạn mức cho vay, kéo dài thời gian cho vay và thời gian dự trữ. Ông cũng mong muốn NHNN ưu tiên lãi suất vay thấp nhất có thể để giúp doanh nghiệp và nông dân dễ dàng tiếp cận vốn vay, đặc biệt là đối với các khoản vay thế chấp bằng hàng hóa. Bên cạnh đó, ông Nam cũng đề nghị Bộ Công thương (BCT) kích hoạt chế độ giá sàn 500 USD/tấn, nhằm giúp ổn định giá thị trường trong bối cảnh khó khăn hiện tại. Một điểm quan trọng mà ông Nam nhấn mạnh là tình hình nhập khẩu lúa từ Campuchia có thể ảnh hưởng lớn đến giá lúa trong nước, và cần có sự xem xét cẩn trọng từ chính phủ.
Liên kết sản xuất và tiêu thụ – Giải pháp dài hạn

Bàn về giải pháp phát triển lâu dài cho ngành lúa gạo, ông Bùi Bá Bổng, đại diện Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam, cho rằng việc xây dựng các mối liên kết bền vững giữa các bên là yếu tố quan trọng giúp phát triển ngành hàng này. Ông chỉ ra rằng, mối liên kết giữa nông dân với nông dân và giữa nông dân với doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, điều này là một trong những yếu tố yếu nhất của ngành. Để khắc phục tình trạng này, Hiệp hội đã triển khai Đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp với mục tiêu tạo ra các mô hình sản xuất và tiêu thụ ổn định, trong đó các hợp tác xã (HTX), chính quyền địa phương và doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng.
Ông Bổng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm giá thành sản xuất, đặc biệt trong bối cảnh giá xuất khẩu giảm. Một trong những giải pháp để đạt được điều này là áp dụng các biện pháp canh tác hiệu quả, từ đó giúp giảm chi phí sản xuất và giá bán lúa gạo.
Khó khăn trong thu mua, lưu trữ và cần hỗ trợ từ ngân hàng

Ông Trương Mạnh Linh, đại diện Tập đoàn Tân Long, chia sẻ rằng Tập đoàn đã liên tục thu mua lúa gạo từ nông dân và hợp tác xã (HTX) từ đầu vụ, đặc biệt là trong giai đoạn Đông Xuân. Hiện nay, cơ sở vật chất của tập đoàn có thể hỗ trợ lưu trữ sản phẩm lúa gạo giúp cho nông dân và có khả năng lưu trữ lên đến 300.000 tấn. Tuy nhiên, ông Linh chỉ ra rằng vấn đề lớn nhất mà doanh nghiệp gặp phải là khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn trung và dài hạn để thu mua, tạm trữ khối lượng lúa lớn trong giai đoạn cao điểm thu hoạch. Hiện tại, các doanh nghiệp chỉ có thể đáp ứng nhu cầu thu mua và bán ra mà chưa thể tích trữ lâu dài do thiếu vốn lưu động.
Vì vậy, ông Linh đề xuất Ngân hàng Nhà nước cần nới lỏng điều kiện tín dụng, cung cấp các chính sách lãi suất ưu đãi để doanh nghiệp có thể triển khai hoạt động thu mua, lưu trữ trong thời gian chính vụ. Ông cũng nhấn mạnh một vấn đề quan trọng khác là logistics ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Việc thiếu ghe, thuyền vào mùa thu hoạch gây tắc nghẽn ở các nhà máy sấy, khiến lúa phải nằm đồng, giảm giá trị và thất thoát trong quá trình vận chuyển.
Cải thiện cơ sở hạ tầng và tạo liên kết vững mạnh
Ông Ngô Công Thức, Phó Chủ tịch UBND An Giang, cho biết tỉnh này đã chủ động bảo vệ diện tích lúa chưa thu hoạch và rà soát tiến độ thu hoạch hàng tuần. Điều này giúp cung cấp thông tin kịp thời cho doanh nghiệp thu mua và tránh tình trạng lúa ùn ứ trong dân. An Giang cũng đang tích cực mời gọi các doanh nghiệp đến đầu tư và xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ ổn định. Ông Thức đề xuất Chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và cho thuê đất để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất và chế biến lúa gạo.
Hướng nông dân sản xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp
Ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang cho biết, Kiên Giang hiện đang triển khai Đề án 1 triệu ha và dự kiến mở rộng diện tích lên 100.000 ha. Hiệu quả của đề án này tạo năng suất cao hơn và mặc dù giá lúa giảm, nông dân vẫn có lãi (giá bán hiện nay là từ 30 -35 triệu đồng/ha so với bên ngoài là 20-25 triệu đồng/ha).
Ông Toàn cũng kiến nghị Chính phủ cần có chỉ đạo để nông dân sản xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp từ giống, quy trình sản xuất, đến yêu cầu giảm dư lượng, giảm phát thải. Cùng với đó, ông đề xuất các doanh nghiệp khi quy hoạch vùng nguyên liệu cần bố trí cơ sở sản xuất tại các vùng này để giảm chi phí cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả cho nông dân và hợp tác xã.
Điều chỉnh sản xuất lúa gạo chất lượng cao

Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân, năm 2024 là một năm đáng ghi nhận đối với ngành lúa gạo Việt Nam, với sản lượng và giá trị xuất khẩu đạt kỷ lục. Tuy nhiên, tình hình thị trường trong năm 2025 được dự báo sẽ có sự điều chỉnh mạnh, dẫn đến suy giảm giá và sản lượng. Để đối phó với tình hình này, ông Tân cho biết Bộ Công Thương đang triển khai chiến lược tìm kiếm các thị trường mới nhằm duy trì sự ổn định và phát triển bền vững xuất khẩu lúa gạo.
Một trong những giải pháp quan trọng là điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, đặc biệt là chuyển sang sản xuất lúa gạo chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế. Bộ Công Thương cũng kỳ vọng việc tăng cường liên kết giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và hiệp hội trong ngành lúa gạo sẽ tạo ra sức mạnh tổng thể, giúp ngành phát triển một cách bền vững.
Bên cạnh đó, ông Tân cũng cho rằng cần phải sửa đổi các nghị định liên quan đến ngành lúa gạo, đặc biệt là Nghị định 107 và Nghị định 01, để tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. Bộ Công Thương cũng đang nghiên cứu việc áp dụng giá sàn và kiểm tra khả năng lưu trữ để duy trì ổn định giá gạo trong thời gian tới.
Thách Thức và Giải Pháp Tài Chính

Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc NHNN, chia sẻ rằng ngành lúa gạo đã đạt được nhiều thành tựu trong những năm qua, đặc biệt là sự chuyển dịch nhanh chóng sang sản xuất lúa chất lượng cao. Với Đề án 1 triệu ha trồng lúa phát thải thấp, ông Tú khẳng định đây là một trong những mô hình liên kết sản xuất quan trọng, giúp gia tăng hiệu quả sản xuất và giảm rủi ro cho người nông dân. Tuy nhiên, ông cũng nhận định rằng ngành lúa gạo hiện đang đối mặt với không ít khó khăn khách quan như thiên tai, dịch bệnh và biến động của thị trường quốc tế.
Hiện nay, Ngân hàng NN-PTNT đã có khoản tín dụng 30.000 tỷ để phục vụ Đề án này và nếu giải ngân hết sớm, Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng triển khai thêm, ông Đào Minh Tú chia sẻ thêm.
Cũng theo ông Tú, việc tạm trữ gạo để đảm bảo chất lượng và ổn định giá cả là một vấn đề quan trọng. Ngành ngân hàng đã và đang làm việc với các doanh nghiệp để có các khoản đầu tư vào hệ thống tạm trữ và chế biến sâu. Tuy nhiên, vấn đề này đòi hỏi sự cam kết của các doanh nghiệp trong việc bảo đảm khả năng trả nợ.
Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và hỗ trợ tín dụng

Bà Nguyễn Minh Hằng, đại diện Bộ Ngoại giao, chỉ ra rằng, ngành lúa gạo hiện đang phải đối mặt với một số khó khăn lớn. Sự gia tăng nguồn cung từ các quốc gia như Ấn Độ vào mùa thu hoạch đã khiến giá lúa gạo giảm mạnh. Thêm vào đó, nhu cầu nhập khẩu từ các quốc gia truyền thống như Philippines và Indonesia giảm, kéo dài tình trạng khó khăn của ngành đến tháng 5.
Để giải quyết vấn đề này, bà Hằng đề xuất cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, giống như những gì đã được thực hiện ở các quốc gia sản xuất gạo lớn như Thái Lan. Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao cũng khuyến khích triển khai các giải pháp bảo hiểm rủi ro về giá để hỗ trợ các doanh nghiệp đối phó với biến động giá gạo.
Một chiến lược quan trọng nữa là đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Theo bà Hằng, các hiệp định thương mại tự do (FTA) cần được đẩy mạnh và nghiên cứu các thị trường mới, đặc biệt là các khu vực như Trung Đông và châu Phi, nơi nhu cầu tiêu thụ gạo đang tăng mạnh.
Ngoài ra, Bộ Ngoại giao cũng kêu gọi thu hút đầu tư vào ngành nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa gạo, để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững cho ngành này.

Những ý kiến và giải pháp từ các chuyên gia và lãnh đạo các cơ quan chức năng cho thấy ngành lúa gạo Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong năm 2025. Tuy nhiên, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng nông dân cùng các giải pháp như cải tiến cơ cấu sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu và gia tăng đầu tư vào nông nghiệp sẽ là những yếu tố quyết định giúp ngành vượt qua khó khăn và phát triển bền vững.
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt và biến động của thị trường, các cơ quan chức năng cần tiếp tục triển khai các chính sách hỗ trợ kịp thời và mạnh mẽ, đặc biệt trong các lĩnh vực tín dụng, đầu tư vào công nghệ chế biến sâu, cũng như duy trì sự ổn định của giá gạo. Việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới và nâng cao chất lượng sản phẩm lúa gạo sẽ là chìa khóa để giúp ngành lúa gạo Việt Nam tiếp tục giữ vững vị thế trên trường quốc tế, đảm bảo lợi ích cho người nông dân và doanh nghiệp, đồng thời phát triển bền vững trong dài hạn.