Tín dụng xanh khởi sắc
Những năm qua, ngành Ngân hàng với vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng đã triển khai nhiều giải pháp nhằm định hướng dòng vốn vào các dự án xanh, thân thiện với môi trường. Trên cơ sở bám sát mục tiêu của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định môi trường kinh doanh... tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư thực hiện các dự án góp phần bảo vệ môi trường, hỗ trợ tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Thị trường tín dụng xanh tăng trưởng mạnh mẽ và trở thành thị trường dẫn vốn chính cho các dự án đầu tư xanh trong giai đoạn vừa qua. Theo bà Hà Thu Giang - Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), cùng với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, hệ thống ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ rệt trong thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh. Các tổ chức tín dụng đã chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế để triển khai cho vay chương trình tín dụng xanh như: Dự án chuyển hóa các-bon thấp sang lĩnh vực tiết kiệm năng lượng (Dự án GIF); Sản phẩm cho vay dự án phát triển năng lượng tái tạo từ nguồn vốn World Bank (Dự án REDP); Sản phẩm cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ nguồn Dự án SMEFP (nguồn vốn của JICA); Sản phẩm cho vay dự án hiệu quả năng lượng cho ngành công nghiệp Việt Nam (nguồn vốn WB); Sản phẩm cho vay lại các Dự án năng lượng tái tạo từ nguồn vốn vay Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản...
Giai đoạn 2017 - 2021, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 25%/năm. Phần lớn các ngân hàng đã có quy định về việc kiểm soát an toàn, bền vững khi tài trợ cho các dự án đầu tư, yêu cầu về bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên; đồng thời, áp dụng tài liệu tham khảo về bộ công cụ đánh giá rủi ro môi trường và xã hội do NHNN phối hợp Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) ban hành trong việc đánh giá, thẩm định dự án cho vay.
Năm 2021, Mạng lưới tài chính và ngân hàng bền vững (SBFN) xếp Việt Nam vào nhóm thứ hai các quốc gia có sự tiến bộ đáng kể trong tiến trình phát triển bền vững, đồng thời, đánh giá cao các chính sách của Việt Nam liên quan đến đóng góp quốc gia tự quyết NDCs - một nội dung quan trọng của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Mở rộng kênh huy động tài chính mới
Về các kênh huy động tài chính mới, Việt Nam đã có các Nghị định số 93/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 quy định về quản lý nợ của chính quyền địa phương và Nghị định số 95/2018/NĐ-CP, trong đó có quy định trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương xanh. Gần đây, Việt Nam đã có Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, trong đó quy định về các danh mục dự án được cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh.
Trong năm 2021 - 2022, cùng với một số nước trong khu vực, thị trường vốn nợ bền vững của Việt Nam có mức tăng trưởng mạnh mẽ, tổng giá trị đạt 1,5 tỷ USD trong năm 2021.
Theo Ngân hàng Nhà nước, lĩnh vực xanh bao gồm 12 ngành, lĩnh vực, đối tượng: Nông nghiệp xanh; lâm nghiệp bền vững; công nghiệp xanh; năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; tái chế, tái sử dụng các nguồn tài nguyên; xử lý chất thải và phòng, chống ô nhiễm; bảo vệ môi trường thiên nhiên, khôi phục sinh thái và phòng, chống thiên tai; quản lý nước bền vững tại khu vực đô thị và nông thôn; công trình xây dựng xanh; giao thông bền vững; cung cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng; lĩnh vực xanh khác.
Việt Nam là thị trường phát hành nợ xanh lớn thứ hai trong ASEAN, chỉ sau Singapore. Mặc dù vậy, tính thanh khoản trên thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam còn khá thấp và chưa có sự kết nối cung - cầu mạnh mẽ. Theo khảo sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tại Việt Nam, 90% doanh nghiệp cho biết họ khó tìm được người mua khi phát hành trái phiếu. Bên cạnh đó, trong khi các ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò chủ đạo trên thị trường trái phiếu, thì theo khảo sát của tổ chức Sáng kiến Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) đối với các NHTM vào năm 2020, các vấn đề chính khiến các NHTM chưa đầu tư vào trái phiếu xanh là do “thiếu các dự án xanh” và “chưa có nhiều tổ chức phát hành”. Khi tính thanh khoản của thị trường thấp và các thông tin không sẵn có, những người mua tiềm năng trên thị trường khó có thể gặp được những người bán tiềm năng, dẫn đến quy trình tốn thời gian, chi phí giao dịch và các nguồn lực hơn so với các thị trường khác.
Một kênh khác, thị trường cổ phiếu xanh mới chỉ đưa vào vận hành Chỉ số phát triển bền vững, bao gồm 20 cổ phiếu thuộc VN100 có tính phát triển bền vững tốt nhất thị trường. Trong đó, quy định yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết phải cung cấp thông tin về môi trường, xã hội và cộng đồng theo tiêu chí ESG (Môi trường (E), Xã hội (S), Quản trị (G).
Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ môi trường 2020 cũng đã quy định về lộ trình phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam - nơi trao đổi, mua bán các kết quả từ hoạt động giảm phát thải khí nhà kính. Hiện nay, gần 2.000 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phát thải lớn đã có tên trong danh sách phải kiểm kê khí nhà kính hằng năm và là khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên, thị trường vẫn còn cần thời gian hoàn thiện cơ sở pháp lý và thí điểm, làm cơ sở đi vào vận hành thực tiễn từ năm 2027.
Theo các chuyên gia, để khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư tổ chức vào thị trường tài chính xanh. Việt Nam cần từng bước đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, tiến tới cấu trúc cơ sở nhà đầu tư với sức cầu ổn định, chuyên nghiệp với chiến lược đầu tư dài hạn, có trách nhiệm xã hội. Muốn vậy, cần phải tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và sự tiện lợi trong hoạt động giao dịch cho nhà đầu tư, hiện đại hóa hơn nữa hệ thống giao dịch hỗ trợ nhiều phương thức và hình thức giao dịch, hiện đại hóa cơ chế giao dịch và từng bước triển khai áp dụng các kỹ thuật hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh những nỗ lực của ngành Ngân hàng hướng dòng vốn tín dụng vào tài trợ các dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, việc mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh đòi hỏi sự phối, kết hợp từ nhiều phía. Đặc biệt, các bộ, ngành cần thể hiện được vai trò trong việc hoàn thiện cơ chế chính sách xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các TCTD căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh; hỗ trợ các ngành xanh và phát triển thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh.