Đây là nghiên cứu đầu tiên khảo sát toàn diện số lượng rừng bị mất do các hoạt động khai thác công nghiệp thâm canh ở vùng nhiệt đới. Theo các nhà nghiên cứu, có khoảng 3.264 km2 rừng nhiệt đới đã bị mất do khai thác từ năm 2000 đến 2019, lớn hơn diện tích của Vườn quốc gia Yosemite (Mỹ).
Dữ liệu vệ tinh cho thấy, chiếm đến 4/5 vụ phá rừng này chỉ xảy ra ở 4 quốc gia: Indonesia, Brazil, Ghana và Suriname. Trong đó, Indonesia xếp vị trí đầu tiên, chịu trách nhiệm cho 58,2% số vụ phá rừng nhiệt đới do việc mở rộng các mỏ công nghiệp.
Phó Giáo sư Stefan Giljum, Viện Kinh tế Sinh thái tại Đại học Kinh tế và Kinh doanh Vienna, Áo cho biết, hoạt động khai thác rừng gây ra rất nhiều thiệt hại về môi trường như sự hủy hoại hệ sinh thái, mất đa dạng sinh học, gián đoạn nguồn nước, sản xuất chất thải nguy hại.
Ông Stefan Giljum cho biết, việc chính phủ cấp phép khai thác cần tính đến tất cả những điều này: mỏ công nghiệp có thể dễ dàng phá vỡ cảnh quan và hệ sinh thái. Khai thác công nghiệp vẫn là một điểm yếu tiềm ẩn trong chiến lược giảm thiểu tác động môi trường.
Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 26 quốc gia khác nhau, chiếm 76,7% tổng số vụ phá rừng nhiệt đới liên quan đến khai thác mỏ xảy ra từ năm 2000 đến năm 2019. Các hoạt động khai thác này bao gồm khai thác than, vàng, quặng sắt và bauxite.
Mức độ phá rừng do khai thác mỏ hiện đang giảm xuống. Mất rừng do khai thác công nghiệp tại Indonesia, Brazil và Ghana đều đã đạt đỉnh từ năm 2010 đến năm 2014, riêng khai thác than vẫn tiếp tục phát triển ở Indonesia.
Theo Giáo sư Hariadi Kartodihardjo, chuyên gia về Chính sách Lâm nghiệp tại Đại học Nông nghiệp Bogor ở Indonesia, mặc dù tổng số vụ phá rừng ở Indonesia đã giảm hàng năm kể từ năm 2015, nhưng những phát hiện này cho thấy cần phải tiếp tục lập kế hoạch sử dụng đất để bảo đảm việc khai thác không phá hủy rừng hoặc vi phạm quyền cộng đồng.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, tại một số nước nhiệt đới, các hoạt động thâm dụng đất khác, như chăn nuôi gia súc hoặc sản xuất dầu cọ và đậu tương, gây ra nạn phá rừng nhiều hơn khai thác.
Nhà địa lý Anthony Bebbington thuộc Đại học Clark ở Massachusetts (Mỹ) cho rằng, trước nhu cầu khoáng sản ngày càng gia tăng, đặc biệt là kim loại cho năng lượng tái tạo và công nghệ di động điện tử, các chính phủ và ngành cần có các chính sách tính đến tác động trực tiếp và gián tiếp của việc khai thác. Giải quyết những tác động này là một công cụ quan trọng để bảo tồn các khu rừng nhiệt đới cũng như tạo công ăn việc làm cho các cộng đồng sống trong những khu rừng này.
Một số nghiên cứu trước đây đã đề cập đến giải pháp ngăn chặn nạn phá rừng là công nhận và thực thi quyền tài sản của cộng đồng địa phương và người dân bản địa đã sống trong rừng từ rất lâu trước khi các công ty khai thác xuất hiện.