Quy chế tuyển sinh, đào tạo trình độ tiến sĩ khoa học, khách quan và công bằng |
Quy chế tiếp tục mở rộng tự chủ và trách nhiệm giải trình
Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ được ban hành kèm theo Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT ngày 4/4/2017 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Quy chế 08) trước khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật 34) có hiệu lực. Do vậy, có một số quy định trong quy chế không còn phù hợp với quy định của Luật 34 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật 34.
Trước thực tế trên, ngày 28/6/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ kèm theo Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Theo Vụ trưởng Nguyễn Thu Thủy, Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ mới có những điều chỉnh khoa học, khách quan và công bằng trong đào tạo trình độ tiến sĩ. Đáng chú ý là tiếp tục mở rộng tự chủ và trách nhiệm giải trình; lượng hóa, chuẩn hóa những quy định về ngoại ngữ và năng lực nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh; quy định về tổ chức và quản lý đào tạo linh hoạt hơn.
Cụ thể, để mở rộng tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo tiến sĩ theo Luật 34, Quy chế tiếp tục giảm thiểu những nội dung hướng dẫn chi tiết, thay vào đó, yêu cầu cơ sở đào tạo cụ thể hóa quy trình và thủ tục liên quan. Để lượng hóa, chuẩn hóa những quy định, đối với người dự tuyển, Quy chế bổ sung minh chứng về trình độ ngoại ngữ (sử dụng các chứng chỉ quốc gia theo khung ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam bên cạnh những chứng chỉ được quốc tế công nhận như IELTS, TOEFL,…).
Đồng thời, nhằm đáp ứng hiệu quả trước sự thay đổi trong quá trình đào tạo, các quy định về tổ chức và quản lý đào tạo trong Quy chế này linh hoạt hơn và do cơ sở tự chủ quyết định. Theo đó, người học được tạo điều kiện bảo lưu kết quả học tập trong thời gian nhất định để tiếp tục theo học và nghiên cứu nếu có nhu cầu. Quy chế điều chỉnh tăng số lượng nghiên cứu sinh/người hướng dẫn trong cùng một thời gian. Quy định này nhằm thu hút, tận dụng tri thức của những người đủ điều kiện để đóng góp vào công tác nghiên cứu, đào tạo thế hệ tương lai, nhưng không làm giảm chất lượng đào tạo…
Bổ sung công nhận bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành
Quy chế mới bổ sung việc công nhận bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín trong nước. Bà Nguyễn Thu Thủy cho rằng, ở thời điểm hiện tại, điều này là cần thiết. Bà lý giải, Việt Nam hiện có trên 600 tạp chí khoa học, và trong hệ thống tạp chí được Hội đồng Giáo sư nhà nước tính điểm có hơn 400 tạp chí.
Theo bà Thủy, chất lượng của một số tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín ở trong nước trong gần 5 năm vừa qua đã thật sự thay đổi rất tích cực và cần được ghi nhận. Chúng ta đang có 1 tạp chí được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu SCIE (Science Citation Index Expansed); 6 tạp chí thuộc ESCI (Emerging Sources Citation Index) của Web of Sciences; 8 tạp chí Scopus và 18 tạp chí được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu của ACI (ASEAN Citation Index). Do đó, sự ghi nhận, công nhận đối với các tạp chí trong nước sẽ là động lực để các tạp chí khoa học phấn đấu nâng cao chất lượng, tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế bằng nội lực, từ đó, đẩy mạnh việc quan tâm xây dựng các tạp chí trong nước vươn lên đẳng cấp quốc tế.
Hơn nữa, bên cạnh việc góp phần đưa kết quả nghiên cứu của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh đến với cộng đồng khoa học quốc tế, việc công bố các kết quả nghiên cứu qua các tạp chí có uy tín ở trong nước là một kênh để những sản phẩm khoa học có giá trị phù hợp với điều kiện của Việt Nam đến được với đông đảo những người quan tâm ở trong nước. Đây là sự ghi nhận các kết quả nghiên cứu ứng dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn, góp phần tư vấn và xây dựng chính sách tại Việt Nam.
Quy định này cũng khẳng định trách nhiệm, đóng góp đối với quốc gia của các nhà khoa học, nghiên cứu sinh Việt Nam.